MỞ ĐẦU
Kiểm sát viên là một chức
danh tố tụng,
được bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo vệ tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong hệ thống cơ quan Viện kiểm
sát và bộ máy Nhà nước được khẳng định từ Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Cùng với quá
trình phát triển của hệ thống cơ quan tư pháp, pháp luật về Kiểm sát viên cũng
từng bước hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để tiếp tục xây dựng đội ngũ
Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu của cải cách tư
pháp, đặc biệt là trong lĩnh vực giải quyết án hình sự. Theo đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành quy định rất
rõ ràng và cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Những
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đó bao gồm hai loại: một loại liên quan đến
hoạt động thực hành quyền công tố và một loại liên quan đến hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự.
Tuy nhiên, quá trình
thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên cho thấy, trong quá trình thực hành quyền công tố vẫn còn nhiều hạn chế, có trường hợp bỏ lọt tội phạm; việc phê chuẩn các quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn có trường hợp còn chưa
chính xác; còn một số trường hợp để
xảy ra tình trạng trả hồ sơ có lỗi của Kiểm sát viên, có trường hợp đình chỉ điều tra bị can, đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội....
Thực trạng trên do
nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Do vậy, với tư cách là một Kiểm
sát viên, việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật hiện hành về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc giải quyết án hình sự là một nội dung quan trọng, làm cơ sở, bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động của kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, góp phần thực
hiện mục tiêu của cải cách tư pháp.
Chương 1
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, vai trò, ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết án hình sự
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của KSV
trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình giải quyết án hình sự
Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết án hình sự là việc Viện kiểm sát
sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, đưa người
phạm tội ra xét xử trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công
dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết án hình sự của
các cơ quan hữu quan bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự.
Theo đó, nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải
quyết án hình sự là quyền năng, trách nhiệm của Kiểm sát viên được pháp luật
quy định
khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp khi giải quyết án hình
sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các cơ quan hữu quan nhằm bảo vệ tính nghiêm minh, thống
nhất của pháp luật, bảo đảm quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
1.1.2. Vai trò,
ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong thực hành quyền
công tố, kiểm sát giải quyết án hình sự
Thứ nhất, quy định nhiệm
vụ quyền hạn của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, kiểm sát giải
quyết án hình sự là sự bảo đảm pháp
lý, công cụ không thể thiếu trong quá trình Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết án.
Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có
chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong hoạt động thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc giải quyết án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân, Kiểm sát
viên là nhân tố cơ bản. Hoạt động nghề
nghiệp của Kiểm sát viên mang tính đặc thù
cao. Vì vậy, để thực thi nhiệm vụ
thì chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
Kiểm sát viên cần phải được Nhà nước
luật hoá và bảo đảm thực hiện. Nói một cách khác, đây là sự bảo đảm pháp
lý, công cụ không thể thiếu trong quá trình Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết án hình sự.
Thứ hai,
quy định nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát
viên trong thực hành quyền công tố, kiểm
sát giải quyết án hình sự là cơ sở xác định
phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ ba, quy
định nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát
viên trong thực hành quyền công tố, kiểm
sát giải quyết án hình sự là là cơ sở pháp lý để Nhân dân kiểm soát quyền lực
và thực hiện việc kiểm tra,
giám sát đối với hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết án hình sự của Kiểm sát viên.
1.1.3. Nội dung
nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết
án hình sự
Chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong giải quyết án
hình sự được thể hiện ở hai nội dung cơ bản là:
Thứ nhất, Thực hành quyền
công tố trong quá trình giải quyết án hình sự là việc sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Thứ hai, Kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, Tòa án để phát hiện kịp thời vi phạm của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện
pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để loại trừ vi phạm pháp luật; nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội.
1.1.4. Mối quan
hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong các vụ án hình sự .
Quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ
trong việc giải quyết án hình sự, các hoạt động thực hành quyền công tố và các
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau, hoạt
động này là tiền đề để thực hiện tốt hoạt động tiếp theo. Hai chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng có mối quan hệ chặt
chẽ. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật các vụ án
hình sự được thực hiện xen kẽ trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án
hình sự.
Ví dụ: Khi quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn, các quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra, là Viện kiểm sát trực
tiếp thực hành quyền công tố. Đồng thời, Viện kiểm sát còn kiểm tra tính hợp
pháp của các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, là Viện kiểm sát thực
hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Cơ
quan điều tra.
Khi quyết định
đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can hoặc quyết định phục hồi điều tra …, Viện kiểm
sát thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, Viện kiểm sát cũng phải kiểm sát tính
có căn cứ và tính hợp pháp của các quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án
đối với bị can của mình phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Khi quyết định việc truy tố bị can ra Toà, Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố, nhưng quyết định truy tố cũng phải bảo đảm tính có căn
cứ và tính hợp pháp, có nghĩa là bản thân Viện kiểm sát khi thực hành quyền
công tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật tố tụng.
Trước phiên toà hoạt động kiểm sát xét xử
đã phải được thực hiện. Tại phiên toà đồng thời với việc thực hành quyền công tố
phải thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử. Viện kiểm sát chỉ thực hiện chức năng
công tố công bố cáo trạng khi đã yêu cầu toà án thực hiện đầy đủ phần thủ tục bắt
đầu phiên toà, giải quyết sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng, đảm bảo
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Hoặc khi thực hành quyền công tố trong
tham gia xét hỏi Kiểm sát viên đồng thời thực hiện kiểm sát trình tự xét hỏi, kiểm sát việc thực
hiện các hoạt động điều tra công khai tại phiên toà như: Công bố lời khai tại
cơ quan điều tra, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ.., Khi tranh luận Kiểm sát
viên đồng thời kiểm sát việc điều khiển trình tự tranh luận tại phiên toà của Hội
đồng xét xử.
Tóm lại, trong quá trình kiểm sát giải quyết án hình sự,
thực hành quyền công tố là những biện pháp mà Viện kiểm sát trực tiếp quyết
định (như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay
đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định phê chuẩn các quyết định của Cơ
quan điều tra; quyết định việc truy tố bị can ra Toà, chức năng công tố tại
phiên tòa...); còn kiểm sát các hoạt động tư pháp là những biện pháp Viện kiểm
sát không trực tiếp ra quyết định, mà qua công tác kiểm sát, nếu phát hiện các
vi phạm pháp luật của Cơ quan điều tra, Tòa án thì yêu cầu, kiến nghị Cơ quan
điều tra, các cơ quan được giao một số hoạt động điều tra, Tòa án khắc phục.
Như vậy, giữa
hoạt động kiểm sát tư pháp và hoạt động thực hành quyền công tố trong quá trình
giải quyết án hình sự có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, có tác dụng
hỗ trợ cho nhau, thực
hiện tốt hoạt động này là tiền đề để thực hiện tốt hoạt động kia. Vì vậy quá
trình thực hiện kiểm sát viên cần phải nắm chắc các quy định của pháp luật tố tụng,
quy chế kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử và các văn bản hướng dẫn, điều quan
trọng là phải biết gắn kết giữa các hoạt động và các nhiệm vụ trong quá trình
thực thi để công tác kiểm sát đạt hiệu quả cao.
1.2. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết án hình sự
Theo Điều 74 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 quy
định thì “Kiểm sát viên là người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”;
Tại Điều 83 quy định: “Khi
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát
viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân; Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc
thực hành quyền công tố,
tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp; Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân; Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp
thời báo cáo bằng văn bản với
Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu
quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về
quyết định của mình…; Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp do luật định”....
BLTTHS năm 2015
ra đời với những quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của) quy định nhiệm vụ
quyền hạn của Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự theo hướng tăng
thẩm quyền cho Kiểm sát viên. Đây là bước tiến quan trọng trong việc ghi nhận
những quyền năng pháp lý của Kiểm sát viên, vừa tạo tính chủ động trong quá
trình thực thi nhiệm vụ, vừa nâng cao tính tính độc lập và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Theo đó, tại Điều 42 BLTTHS quy định:
“1.
Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan, người có thẩm
quyền;
b) Trực
tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm;
c) Kiểm
sát việc thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, áp dụng biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về
tội phạm, việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan, người có thẩm quyền điều tra; kiểm
sát hoạt động khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
d) Trực
tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận
dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét;
đ) Kiểm
sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; việc
tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra, kết thúc
điều tra;
e) Đề
ra yêu cầu điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can;
g)
Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin
về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân, người làm chứng, bị hại, đương sự; lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
h)
Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng,
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; quyết định
giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám
sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;
i) Trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này;
k) Yêu
cầu thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; yêu cầu hoặc đề nghị cử,
thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người
dịch thuật;
l) Tiến
hành tố tụng tại phiên tòa; công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ
tục rút gọn, các quyết định khác của Viện kiểm sát về việc buộc tội đối với bị
cáo; xét hỏi, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, luận tội, tranh luận, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa, phiên họp;
m) Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử của Tòa án và những người
tham gia tố tụng; kiểm sát bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác của
Tòa án;
n) Kiểm
sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
o) Thực
hiện quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật;
p)
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy định của
Bộ luật này.
2. Kiểm
sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm
sát, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình”.
Cụ thể hoá các
quy định của BLTTHS năm 2015 và Luật
tổ chức VKSND năm 2014, nội dung
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố,
kiểm sát giải quyết án hình sự được quy
định trong Quy chế kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố - Ban hành kèm theo
Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 (sau đây gọi tắt là Quy chế 169); Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố vụ án hình sự
- Ban hành kèm theo Quyết
định số 03/QĐ- VKSTC, ngày 29/12/2017 (sau
đây gọi tắt là Quy chế 03); Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
xét xử vụ án hình sự - Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày
18/12/2017 (sau đây gọi tắt là Quy chế 505), Quy chế tạm thời công tác thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thực nghiệm điều tra, giám định ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-VKSTC
ngày 02/5/2018 (sau đây gọi tắt là Quy chế 170).
1.2.1.
Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc giải quyết tin báo
Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố bắt đầu
từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, đến khi ra quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự và thông báo kết quả giải quyết theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nội dung của chức
năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Kiểm sát viên được thể hiện
thông qua các nội dung sau:
Kiểm sát việc tiếp nhận, phân loại, việc chuyển tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố để giải quyết theo thẩm quyền
Điều
7 Quy chế 169 quy
định:
Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận, phân loại của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Trong
trường hợp phát hiện việc phân loại của Cơ quan có thẩm quyền điều tra chưa
chính xác, Kiểm sát viên cần kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để
trao đổi với Cơ quan có thẩm quyền điều tra khắc phục.
Quá
trình kiểm sát việc tiếp nhận, phân loại, kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan có thẩm quyền điều tra mà thấy
không thuộc thẩm quyền, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện có văn bản yêu cầu cơ quan đã tiếp nhận, đang tiến hành kiểm tra,
xác minh chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; đồng thời thông báo đến
Viện kiểm sát có thẩm quyền để thực hiện việc kiểm sát.
Trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội
phạm
Điều
12 Quy chế 169 quy
định:
Trường
hợp phát hiện Cơ quan có thẩm quyền điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
khắc phục vi phạm. Trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng Cơ quan có thẩm
quyền điều tra không khắc phục, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm
sát để giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của
pháp luật khác có liên quan.
Khi
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Kiểm
sát viên được phân công phải thực hiện các hoạt động sau đây:
a)
Trước khi tiến hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên phải xây
dựng kế hoạch báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, phê duyệt;
b)
Trong quá trình kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên tuân thủ quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành các biện
pháp kiểm tra, xác minh. Đối với vụ việc phức tạp, Kiểm sát viên có thể phối
hợp với điều tra viên, Cán bộ điều tra để tiến hành một số hoạt động kiểm tra, xác
minh;
c)
Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên nghiên cứu, đánh giá chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kết quả kiểm tra, xác
minh và đề xuất hướng giải quyết theo quy định của pháp luật.
Chứng
cứ, tài liệu, đồ vật Kiểm sát viên thu thập được trong quá trình kiểm tra, xác
minh phải được đưa vào hồ sơ vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát theo quy định của pháp
luật.
Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm,
người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố
Kiểm sát viên thực hiện
quyền triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố trong
trường hợp VKS
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Theo quy
định tại điểm c khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 2015, Điều 12 Quy chế 169, VKS trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố trong các trường hợp sau: VKS phát hiện Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.
Quyết định dẫn giải người bị kiến nghị khởi tố
Đây là thẩm quyền mới mà BLTTHS năm 2015 quy định cho
Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố
giác tội phạm. Theo đó, khi trực tiếp giải quyết tin báo, Kiểm sát viên có thể
quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra,
xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được
khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả
kháng hoặc không do trở ngại khách quan;
Kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm
Điều 10 Quy
chế 169 quy
định:
Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ việc của điều tra viên, Cán
bộ điều tra, bảo đảm các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong quá trình kiểm
tra, xác minh phải được thống kê đầy đủ và đưa vào hồ sơ vụ việc.
Đối
với hồ sơ vụ việc gửi Viện kiểm sát để kiểm sát theo thẩm quyền, Kiểm sát viên
phải trích cứu đầy đủ nội dung vụ việc, sao chụp tài liệu cần thiết và lưu hồ
sơ kiểm sát.
Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh
Điều 11 Quy
chế 169 quy
định:
Trong
quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Kiểm sát viên chủ động đề ra yêu cầu
kiểm tra, xác minh để kiểm tra tính xác thực của tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật để làm rõ
những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự được quy định tại Điều 85, Điều 441 Bộ
luật Tố tụng hình sự. Yêu cầu kiểm tra, xác minh có thể được thực hiện
nhiều lần, bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh
phải được đưa vào hồ sơ vụ việc và lưu hồ sơ kiểm sát.
Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của điều tra viên, Cán bộ điều tra, bảo đảm kết quả
giải quyết và các yêu cầu kiểm tra, xác minh được thực hiện đầy đủ, khách quan,
đúng pháp luật. Khi thấy có vấn đề cần phải kiểm tra, xác minh thêm, Kiểm sát
viên kịp thời bổ sung yêu cầu kiểm tra, xác minh; nếu điều tra viên, Cán bộ
điều tra đề nghị, Kiểm sát viên có trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu
cầu kiểm tra, xác minh. Trường hợp điều tra viên, Cán bộ điều tra không nhất
trí thì Kiểm sát viên yêu cầu điều tra viên, Cán bộ điều tra nêu rõ lý do và báo
cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng, Cấp
trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền điều
tra không thực hiện được đầy đủ các yêu cầu kiểm tra, xác minh vì lý do khách
quan thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan
có thẩm quyền điều tra nêu rõ lý do trong văn bản thông báo kết quả giải quyết
nguồn tin về tội phạm.
Kiểm sát kết quả giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Điều
15 Quy chế 169 quy
định:
Kiểm
sát viên phải chủ động nắm chắc nội dung kiểm tra, xác minh, tiến độ giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và yêu cầu điều tra viên, Cán
bộ điều tra cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật để kiểm sát; kịp thời nghiên
cứu, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc
giải quyết.
Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ kết quả giải quyết của Cơ quan có thẩm quyền
điều tra theo quy định của pháp luật. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, nếu Cơ
quan có thẩm quyền điều tra không ra một trong các quyết định quy định
tại Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ
quan có thẩm quyền điều tra ban hành một trong các quyết định đó gửi kèm hồ sơ
để kiểm sát kết quả giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được
quyết định kèm theo hồ sơ kết quả giải quyết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề
xuất với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện hướng giải quyết theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự, các quy định khác của pháp luật có liên quan và Quy
chế 03. Đối với quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố có căn cứ và hợp pháp thì phải thông báo bằng văn bản
cho cơ quan đã ra quyết định biết.
Việc
gia hạn thời hạn giải quyết, tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải bảo đảm theo đúng quy định tại các Điều 147, 148, 149 Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định
của pháp luật khác có liên quan.
Viện
kiểm sát phải theo dõi, quản lý hồ sơ các vụ việc tạm đình chỉ giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và phối hợp với Cơ quan có thẩm
quyền điều tra rà soát, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kịp
thời xử lý khi lý do tạm đình chỉ không còn.
Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc gửi, thông báo kết quả giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trường
hợp phát hiện vi phạm thì phải yêu cầu hoặc kiến nghị theo đúng quy định của
pháp luật.
Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị theo
quy định của pháp luật
Kiểm
sát viên thụ lý giải quyết vụ việc phải kịp thời phát hiện, theo dõi, tổng hợp
vi phạm pháp luật trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, điều tra
viên, Cán bộ điều tra để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra xử lý nghiêm
minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật. Nếu vi phạm của
điều tra viên, Cán bộ diều tra có dấu hiệu tội phạm thì lãnh đạo Viện yêu cầu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra khởi tố vụ án hình sự; nếu có dấu hiệu tội
phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự trung ương để chỉ đạo Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương
xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Đối
với lệnh, quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng,
Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền điều tra, điều tra viên thì lãnh đạo Viện ra văn
bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định
thay đổi, hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ. Đối với
lệnh, quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng, Cấp
trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra thì lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi
hoặc hủy bỏ.
Đối
với lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm quyền điều tra đã được Viện kiểm sát
phê chuẩn mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì lãnh đạo Viện
kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.
Trường
hợp Viện kiểm sát quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ lệnh, quyết định của Cơ quan
có thẩm quyền điều tra thì phải gửi ngay cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để
thực hiện.
Quá
trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm tổng hợp các
vi phạm pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan có thẩm quyền điều tra và người tham gia tố
tụng, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản kiến nghị yêu
cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm theo quy
định tại Khoản 3 Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1.2.2. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của KSV trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
Trong giai đoạn điều tra, phạm
vi của hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp được
xác định bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố (một số trường
hợp có thể được tiến hành trước khi khởi tố như kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi...) và kết thúc khi Viện kiểm sát quyết định việc
truy tố hoặc không truy tố người phạm tội ra toà, hoặc khi vụ án được đình chỉ
theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.
Nội dung hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự được thể hiện thông qua các nội dung sau:
Kiểm sát việc khởi tố vụ án
Khi nhận được quyết định khởi tố vụ án, cùng các tài
liệu, hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp
của quyết định khởi tố vụ án hình sự, đảm bảo các “dấu hiệu tội phạm” phải được
phản ánh trong quyết định khởi tố vụ án và trong hồ sơ, tài liệu xác minh đơn,
tin báo tố giác tội phạm…
Điều 12 Quy chế 03 quy định:
Sau
khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phân công
Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án
hình sự để xem xét, xử lý như sau:
a)
Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp thì gửi quyết
định phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khởi tố, điều tra và truy tố cho cơ quan ra quyết định;
b)
Nếu thấy chưa rõ căn cứ để khởi tố vụ án thì yêu cầu cơ quan đã ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ;
c)
Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan đã ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự hủy bỏ quyết định đó; nếu cơ quan đã
ra quyết định không nhất trí thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra quyết
định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3.
Nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn có tội
phạm khác chưa được khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu cơ quan đã ra quyết
định khởi tố ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình
sự; nếu cơ quan đã ra quyết định khởi tố không nhất trí thì báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung, Kiểm sát viên gửi các quyết định này cho cơ
quan đã ra quyết định khởi tố để tiến hành điều tra theo quy định
tại Khoản 2 Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự.
4.
Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của
Cơ quan có thẩm quyền điều tra không có căn cứ thì Kiểm sát viên thụ
lý giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra hủy bỏ quyết định
đó. Nếu cơ quan đã ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự không hủy bỏ thì lãnh đạo Viện trực tiếp ra quyết
định hủy bỏ.
5.
Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thụ
lý giải quyết vụ án phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đó
và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như
sau:
a)
Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì chuyển bản án, quyết định
khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan đến Cơ
quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra;
b)
Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì kháng nghị lên Tòa án
cấp trên theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 161 Bộ luật
Tố tụng hình sự.
Trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án, Kiểm sát viên có
trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ của Cơ quan điều tra nhằm bảo đảm
đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, động cơ mục đích của tội
phạm và các vấn đề cần chứng minh trong một vụ án hình sự theo quy định cuả
Điều 85 BLTTHS. Các tài liệu có trong hồ sơ phải được thu thập đúng các trình
tự của tố tụng hình sự, các tài liệu trong hồ sơ phải được sắp xếp, đánh số bút
lục theo đúng quy định.
Kiểm sát việc nhập
hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra:
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn
cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục nhập, tách vụ án hình sự để tiến
hành điều tra theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Ngay sau khi nhận được quyết định nhập
hoặc tách vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, nếu thấy không có căn cứ thì Kiểm
sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ
quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự và nêu rõ lý do.
Trường hợp có đủ căn cứ, điều kiện phải
nhập hoặc tách vụ án để tiến hành điều tra nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện
thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản
yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến
hành điều tra.
Xét phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can và quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị
can
Theo Điều 179 BLTTHS và Điều 14 Quy chế
03: Trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can của
Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm
tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố bị can.
Kiểm sát viên phải tiến hành nghiên cứu,
kiểm tra các văn bản, tài liệu, chứng cứ có liên quan, như: Công văn đề nghị
xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Quyết định khởi tố vụ án; Quyết định
khởi tố bị can; Biên bản giao quyết định khởi tố bị can. Các tài liệu làm căn cứ
khởi tố bị can bao gồm: Đơn tố giác, tin báo về tội phạm và các tài liệu ban đầu
do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; tài liệu do Cơ quan điều tra kiểm tra,
xác minh; Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi; Biên bản, kết
luận giám định; Biên bản, kết quả định giá tài sản; Biên bản ghi lời khai của
người làm chứng, người bị hại; Biên bản nhận dạng, đối chất; Biên bản bắt, khám
xét khẩn cấp; Biên bản phạm tội quả tang; Biên bản ghi lời khai của người bị
tình nghị thực hiện tội phạm, người bị bắt, bị tạm giữ; biên bản hỏi cung bị
can; Trích, sao quyết định xử phạt hành chính; Bản kê các tài liệu trong hồ sơ
và từng trang tài liệu được đánh dấu bút lục của Cơ quan điều tra.
Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và tính
hợp pháp của quyết định khởi tố bị can, nếu thấy quyết định khởi tố bị can có
căn cứ và hợp pháp thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và gửi ngay cho cơ quan đã
ra quyết định. Nếu thấy chưa rõ căn cứ xác định bị can phạm tội thì Kiểm sát
viên yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm
rõ căn cứ khởi tố; trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được tài liệu, chứng
cứ bổ sung, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra
quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.
Kiểm sát viên có thể phối hợp với điều
tra viên thụ lý vụ án để lấy lời khai người bị khởi tố, người làm chứng, người
bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước khi báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố
bị can. Đối với những trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi
tố lúc nhận tội, lúc không nhận tội, tài liệu, chứng cứ có mâu thuẫn hoặc chưa
rõ, thì trước khi báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết
định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, Kiểm sát viên phải trực
tiếp lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố. Biên bản
ghi lời khai những người này được chuyển cho cơ quan đã ra quyết định khởi tố để
đưa vào hồ sơ vụ án.
Nếu thấy ngoài bị can đã bị khởi tố còn
có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì Kiểm
sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
Nếu Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện
thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trực tiếp ra
quyết định khởi tố bị can đối với người đó. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan có thẩm quyền điều
tra để tiến hành điều tra.Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, nếu
phát hiện còn có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị
khởi tố thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để
xem xét, quyết định việc khởi tố bị can và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều
tra bổ sung theo quy định tại Khoản 4 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trong quá trình thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, nếu thấy quyết định khởi tố bị can ghi không đúng họ, tên,
tuổi, nhân thân của bị can, hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị
khởi tố mà phạm vào tội khác hoặc còn có hành vi phạm tội khác với tội danh đã
khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can và gửi cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để tiến
hành điều tra trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can theo quy định tại Khoản 3 Điều 180 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận
được quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm tra tài liệu,
chứng cứ và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định phê
chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can;
trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ thì trong thời hạn
03 ngày, kể từ khi nhận được tài liệu, chứng cứ bổ sung, Viện kiểm sát xem xét,
quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi
tố bị can.
Nếu quá trình điều tra xác định được
hành vi của bị can phạm vào tội được quy định tại khoản khác với khoản trong
cùng một điều luật về cùng một tội danh đã khởi tố đối với bị can thì không phải
thay đổi quyết định khởi tố bị can. Nếu thấy cần tạm giam bị can theo thời hạn
của tội phạm quy định tại khoản của điều luật có khung hình phạt nặng hơn hoặc
chuyển vụ án để điều tra, truy tố theo thẩm quyền thì phải ghi rõ lý do này
trong lệnh tạm giam hoặc trong quyết định chuyển vụ án
Trường hợp phải thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can theo quy định tại Khoản 2 Điều này thì lãnh đạo Viện
yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự nếu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 156 Bộ
luật Tố tụng hình sự; trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự.
Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Luật tổ chức Viện
kiểm sát và Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm
sát được thể hiện thông qua vai trò quyết định trong việc áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn. Viện kiểm sát có quyền phê chuẩn lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp; quyết định việc tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, cấm đi khỏi
nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh. Ngoài thẩm quyền phê chuẩn
lệnh bắt bị can để tạm giam và lệnh tạm giam bị can của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát còn có quyền gia hạn tạm giam và có quyền trực tiếp ra lệnh bắt bị can
để tạm giam, có quyền ra lệnh cấm bị can đi khỏi nơi cư trú, quyết định cho bị
can được bảo lĩnh và quyết định cho bị can được đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn
xuất cảnh.
Kiểm sát viên khi
thực thi nhiệm vụ cần kiểm tra hồ sơ, bảo đảm đầy đủ tài liệu, chứng cứ, xác định
đúng thẩm quyền, căn cứ áp dụng theo Điều 15, 16, 17, 18, 19, 20, 21, 22 Quy chế
03, đề xuất lãnh đạo quyết định việc phê chuẩn, áp dụng biện pháp ngăn chặn đảm
bảo đúng pháp luật. Cụ thể:
+ Xét phê chuẩn việc bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp:
Theo khoản 6 Điều 110 Bộ luật Tố tụng
hình sự thì Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ giữ người quy định tại
khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự
Điều 15 Quy chế 03 quy định: Ngay sau
khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, Kiểm sát viên phải tiến Kiểm tra hồ sơ, bảo đảm đầy đủ tài liệu, chứng
cứ theo Khoản 5 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự; trường hợp không đủ tài liệu,
chứng cứ thì yêu cầu cơ quan đề nghị phê chuẩn bổ sung; Xác định thẩm quyền,
căn cứ của việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Khoản 1
và Khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ, thấy có
dấu hiệu lạm dụng việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc chưa đủ căn cứ
để giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc người bị giữ không nhận tội, các
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, người bị giữ là người nước ngoài,
người có chức sắc trong tôn giáo, là nhân sĩ, trí thức, người có uy tín trong đồng
bào dân tộc thiểu số hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Kiểm sát viên trực
tiếp hỏi người bị giữ trước khi báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
xem xét, quyết định việc phê chuẩn. Khi cần hỏi người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, Kiểm sát viên thông báo trước cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để
phối hợp trong quá trình hỏi. Biên bản ghi lời khai của người bị giữ do Kiểm
sát viên lập phải thực hiện theo Mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành
và đúng quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự, được lưu vào hồ sơ vụ việc,
hồ sơ vụ án và hồ sơ kiểm sát.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được
hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
lãnh đạo Viện phải quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn; thời hạn này được
tính liên tục, kể cả trong và ngoài giờ làm việc
+ Kiểm sát việc tạm giữ:
Theo khoản 4 Điều 117 BLTTHS, trong thời
hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi
quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có
căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm
giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Ngay sau khi nhận được quyết định tạm giữ,
hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan có thẩm quyền điều
tra, Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm
giữ, gia hạn tạm giữ để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải
quyết như sau:
- Nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ
hoặc không cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu cơ
quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy định
tại Khoản 4 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ có căn cứ
và cần thiết thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị phê
chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, lãnh đạo Viện phải ra quyết định phê chuẩn
quyết định gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ và
không cần thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và
yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ
theo quy định tại Khoản 2 Điều 118 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp Viện kiểm
sát đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng không phê chuẩn
quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ hai thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự
do.
+ Phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam,
lệnh tạm giam, quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam:
Theo các quy định tại Điều 113 và Điều
119 BLTTHS thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có quyền ra
lệnh bắt bị can để tạm giam và ra lệnh tạm giam nhưng phải được Viện kiểm sát
cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận
được lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, văn bản đề nghị xét phê chuẩn
và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Kiểm sát viên kiểm tra tài liệu, chứng cứ,
đối chiếu với quy định tại các Điều 113, 119 và 173 Bộ luật Tố tụng hình sự để
xác định thẩm quyền, đối tượng, căn cứ, điều kiện tạm giam, thời hạn tạm giam đối
với từng bị can; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết
định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn và trả hồ sơ cho cơ quan đề nghị phê chuẩn
ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản
yêu cầu cơ quan đề nghị phê chuẩn bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ
xem xét, quyết định việc phê chuẩn. Trong trường hợp này, thời hạn xét phê chuẩn
là 03 ngày, kể từ khi Viện kiểm sát nhận được tài liệu, chứng cứ bổ sung.
Nếu thấy đủ căn cứ để tạm giam bị can
theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự và cần thiết phải tạm giam bị
can, nhưng Cơ quan điều tra không ra lệnh bắt bị can để tạm giam, thì Kiểm sát
viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra
văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra lệnh bắt bị can để tạm giam; nếu Cơ quan điều
tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh bắt bị can để tạm giam và chuyển
cho Cơ quan điều tra để thực hiện.
Sau khi phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm
giam, lệnh tạm giam bị can, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm sát
chặt chẽ việc thi hành lệnh và thời hạn tạm giam bị can để kịp thời báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
- Trường hợp còn thời hạn tạm giam nhưng
xét thấy biện pháp tạm giam đối với bị can không còn cần thiết thì yêu cầu Cơ
quan điều tra ra văn bản đề nghị Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ biện pháp
tạm giam hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác trong giai đoạn điều tra
hoặc Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam hoặc thay thế bằng
biện pháp ngăn chặn khác trong giai đoạn truy tố;
- Trước khi hết thời hạn tạm giam 10
ngày, nếu Cơ quan điều tra chưa có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm
giam bị can thì Kiểm sát viên yêu cầu điều tra viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra ra văn bản đề nghị gia hạn hoặc thay đổi, hủy bỏ biện
pháp tạm giam.
Chậm nhất 05 ngày, trước khi hết thời hạn
tạm giam, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để
xem xét, quyết định gia hạn tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam.
+ Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi hoặc
huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn khác:
Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải
kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn
khác của Cơ quan điều tra, gồm: Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 123 BLTTHS), bảo
lĩnh (Điều 121 BLTTHS), đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm (Điều 122
BLTTHS), bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn này có căn cứ, đúng quy định
của pháp luật.
Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra
Trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án, Kiểm sát viên có
trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ của Cơ quan điều tra nhằm bảo đảm
đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội, động cơ mục đích của tội
phạm và các vấn đề cần chứng minh trong một vụ án hình sự theo quy định cuả
Điều 85 BLTTHS. Các tài liệu có trong hồ sơ phải được thu thập đúng các trình
tự của tố tụng hình sự, các tài liệu trong hồ sơ phải được sắp xếp, đánh số bút
lục theo đúng quy định.
Trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi
Đây là chức năng quan trọng của Kiểm sát viên. Thông qua hoạt động này, Kiểm sát viên có trách nhiệm
bảo đảm cho việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi của Cơ quan điều
tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật nhằm phát hiện, thu thập dấu
vết, vật chứng của tội phạm và làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến vụ án.
Hoạt động của Kiểm sát viên khi kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi được cụ thể hóa trong Quy chế 170. Theo đó, khi nhận được thông
báo của Cơ quan Điều tra, lãnh đạo Viện kiểm sát phải cử Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
đối với tất cả các vụ việc mà Cơ quan Điều tra tiến hành khám nghiệm. Ngoài ra,
nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường: Kiểm sát
việc lấy lời khai những người biết sự việc ngay tại hiện trường; Chủ động nắm
tình hình về hiện trường; Kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm; Những
dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên
trạng, niêm phong theo quy định…
Kiểm sát việc đối chất, nhận dạng, nhận
biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét, định giá
Đây
là quy định mang tính chất bắt buộc Kiểm sát viên khi kiểm sát điều tra vụ án
hình sự phải thực hiện.
Sau
khi nhận được thông báo của điều tra viên, Kiểm sát viên phải có mặt để
trực tiếp kiểm sát việc đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói. Trường hợp
Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện và thông báo kịp thời cho điều tra viên để ghi rõ trong
biên bản Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động
của điều tra viên trong khi đối chất theo điều189, 190, 191 Bộ
luật Tố tụng hình sự, nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu điều tra viên
khắc phục.
Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra, nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên yêu
cầu điều tra viên tiến hành việc đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng
nói; nếu điều tra viên không thực hiện thì Kiểm sát viên báo
cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kiến nghị Cơ quan Điều tra khắc
phục.
Điều
32, 33 Quy chế 03 quy định Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ căn
cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục khám xét, thu giữ, tạm giữ tài
liệu, đồ vật, định giá theo quy định
tại Chương XIII, các Điều 215,
216, 217, 218, 219, 220, 221 và 222 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Kiểm sát việc
dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự
Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ hành vi,
tài liệu tố tụng, bảo đảm nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng
hình sự là tiếng Việt theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp tài liệu tố tụng không thể hiện
bằng tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc
người tham gia tố tụng có khuyết tật nghe, nói, nhìn thì Kiểm sát viên chủ động
phối hợp, yêu cầu điều tra viên, Cán bộ điều tra trưng cầu người dịch thuật,
người phiên dịch tham gia tố tụng.
Quyết định áp giải người
bị bắt, bị can, dẫn giải người làm chứng, quyết định giám sát người chưa đủ 18
tuổi
Đây là thẩm quyền mới mà BLTTHS năm 2015 quy định cho
Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra án hình sự.
Áp giải có thể áp dụng đối với:
+ Bị can, bị cáo trong trường hợp đã được triệu
tập nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng;
+ Người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp;
Dẫn giải có thể áp dụng đối với:
+ Người làm chứng trong trường hợp họ không có
mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại
khách quan;
+ Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc
giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;
Đề ra yêu cầu điều tra
Kiểm sát viên có thẩm quyền, trách nhiệm đề ra yêu cầu
điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Đây là chức năng quan
trọng, định hướng cho quá trình điều tra, nhằm chống làm oan, bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội, bảo đảm cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Theo đó, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều
tra và bám sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, bảo đảm các yêu cầu
điều tra phải được thực hiện. Khi phát hiện các tình tiết mới phát sinh trong
quá trình điều tra, Kiểm sát viên phải có yêu cầu bổ sung để Cơ quan điều tra
làm rõ.
Điều 26 Quy chế 03 quy định rõ: “1. Trong quá trình thực hành quyền công
tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự, khi cần làm rõ về tội phạm,
người phạm tội và những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hoặc để hoàn thiện
thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên đề ra yêu cầu điều tra. Yêu
cầu điều tra có thể được thực hiện nhiều lần, bằng văn bản hoặc bằng
lời nói. Văn bản yêu cầu điều tra được đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ
sơ kiểm sát.
Trường hợp vụ án xâm phạm an ninh quốc
gia, trọng điểm, phức tạp; vụ án dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; vụ án có bị
can là nhân sỹ, trí thức, chức sắc trong tôn giáo, người có uy tín thuộc dân
tộc thiểu số và trường hợp xét thấy có thể phải thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thì trước khi ký văn bản đề ra yêu
cầu điều tra, Kiểm sát viên báo cáo, xin ý kiến lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện.
2. Nội dung yêu cầu điều tra
phải cụ thể, rõ ràng, sát với nội dung vụ án, định hướng thu thập chứng cứ để
làm rõ cấu thành tội phạm, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án theo quy
định tại Điều 85, Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Kiểm sát viên chủ động phối hợp, yêu
cầu điều tra viên, Cán bộ điều tra thực hiện đầy đủ nội
dung yêu cầu điều tra. Nếu điều tra viên, Cán
bộ điều tra không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu điều tra,
thì tùy từng trường hợp, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện kiến nghị bằng văn bản với Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ
quan có thẩm quyền điều tra hoặc yêu cầu thay đổi điều tra
viên, Cán bộ điều tra.
Trường hợp do trở ngại khách quan mà không
thể thực hiện được đầy đủ yêu cầu điều tra thì Kiểm sát viên yêu
cầu điều tra viên, Cán bộ điều tra giải thích, nêu rõ lý do
trong bản kết luận điều tra”.
Kiểm sát việc hỏi cung, lấy lời khai, triệu tập và hỏi cung bị can, lấy lời
khai người làm chứng, bị hại, đương sự
Hỏi cung bị
can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự là một trong các hoạt động
điều tra hình sự. Những người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS sử dụng
các chiến thuật tác động đến bị can nhằm mục đích thu thập các tình tiết liên
quan đến nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý
nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Kiểm sát việc
hỏi cung, lấy lời khai hoặc triệu tập, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm
chứng, bị hại, đương sự là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát
viên được quy tại điểm g khoản 1 Điều 42; Điều 183, 184, 185, 186, 187, 188 và
Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), đây là hoạt động thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố, gắn công tố với hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Khi thực hiện
việc này, Kiểm sát viên cần kiểm sát chặt chẽ, đảm bảo các biên bản được thiết
lập đúng trình tự, thủ tục, thành phần, việc giải quyết quyền, nghĩa vụ của bị
can, đương sự đảm bảo đúng pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát
viên trực tiếp hỏi cung bị can trong các trường hợp sau:
a)
Bị can kêu oan;
b)
Bị can khiếu nại hoạt động điều tra;
c)
Có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật;
d)
Khi có đề nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; tài liệu, chứng cứ
mâu thuẫn hoặc chưa rõ; lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc
nhận tội, lúc chối tội; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai
của bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng và
các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết.
Trong
quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra, để quyết
định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra hoặc để quyết định việc truy tố, Kiểm sát viên có thể
triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự trong các trường
hợp sau đây:
a)
Có căn cứ xác định việc lấy lời khai của điều tra viên, Cán
bộ điều tra không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật;
b)
Trong trường hợp lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự có mâu thuẫn
với nhau hoặc mâu thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập được;
c)
Có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan trong lời khai của người làm chứng,
bị hại, đương sự;
d)
Trường hợp cần thiết khác để làm rõ chứng cứ, tài liệu.
Biên
bản ghi lời khai do Kiểm sát viên lập được đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ sơ
kiểm sát.
Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi
người bào chữa, người phiên dịch, dịch thuật
Đây cũng là một quy định mới của pháp luật, tăng thẩm
quyền cho Kiểm sát viên khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự. Theo đó, khi phát hiện người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc
trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc phải thay đổi, thì Kiểm sát viên
có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 50 BLTTHS
2015).
Về
yêu cầu, đề nghị cử, thay đổi người bào chữa: Đây là một trong những nội dung
kiểm sát việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội mà KSV phải thực
hiện theo Quy chế 03.
Theo
đó, khi kiểm sát việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội,
KSV cần chú ý các nội dung sau:
a)
Kiểm sát chặt chẽ việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan
có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ; việc thông
báo cho người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc người đại diện hoặc
người thân thích của họ đã có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa theo đúng quy
định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); việc bảo đảm quyền từ chối
hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa theo quy định tại Điều 77 BLTTHS.
b)
Trường hợp người bị buộc tội thuộc diện được chỉ định người bào chữa theo quy
định tại khoản 1 Điều 76 BLTTHS mà cơ quan có thẩm quyền điều tra không
yêu cầu hoặc đề nghị chỉ định người bào chữa thì KSV yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền điều tra ra văn bản yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức có liên quan cử
người bào chữa; nếu cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện thì KSV báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS ra văn bản yêu cầu hoặc đề nghị các
tổ chức có liên quan cử người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 76
BLTTHS.
Người
bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ có quyền từ chối hoặc
đề nghị thay đổi người bào chữa. Việc thay đổi người bào chữa do cơ quan đã yêu
cầu hoặc đề nghị chỉ định người bào chữa xem xét, giải quyết; việc từ chối
người bào chữa phải được lập biên bản và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
chấm dứt việc chỉ định người bào chữa.
Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
Đây là chức năng công tố quan trọng của Kiểm sát viên
được quy định cụ thể tại Điều 12 Thông tư liên tịch số
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018:
1. Trong giai
đoạn điều tra, khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 165
Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên trực tiếp tiến hành hỏi cung bị can,
lấy lời khai người bị tạm giữ, người bị bắt, bị hại, đương sự, người làm chứng,
người chứng kiến, đối chất, thực nghiệm điều tra và các hoạt động điều tra khác
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thông báo trước cho
Điều tra viên trước khi tiến hành. Điều tra viên có trách nhiệm phối hợp với
Kiểm sát viên để thực hiện các hoạt động điều tra khi được yêu cầu; trường hợp
Điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 02 giờ trước khi Kiểm sát viên tiến hành
một số hoạt động điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên biết.
2. Trường hợp
Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định tại
khoản 3 Điều 236, khoản 1 Điều 246 Bộ luật Tố tụng hình sự mà thấy cần phối hợp
với Cơ quan điều tra thì chậm nhất 24 giờ trước khi tiến hành một số hoạt động
điều tra, Viện kiểm sát thông báo cho Cơ quan điều tra thời gian, địa điểm tiến
hành một số hoạt động điều tra để phân công Điều tra viên cùng phối hợp thực
hiện; trường hợp Điều tra viên vắng mặt thì chậm nhất 02 giờ trước khi Kiểm sát
viên tiến hành một số hoạt động điều tra, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm
sát viên biết.
3. Biên bản
tiến hành một số hoạt động điều tra của Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ
vụ án.
Kiểm sát việc kết thúc điều tra, tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra
Kiểm
sát viên kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra, bảo đảm các trường hợp tạm đình
chỉ điều tra, đình chỉ điều tra được thực hiện theo đúng quy định;
nếu thấy quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra không có căn cứ
và trái pháp luật thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra
của Cơ quan có thẩm quyền điều tra.
Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc kết thúc điều tra vụ án, bảo đảm
các vụ án đã khởi tố, điều tra phải được kết thúc bằng bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra và quyết định đình
chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra; bản kết
luận điều tra phải có nội dung theo quy định tại Điều
232 và Điều 233 hoặc Điều 234 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Bản
kết luận điều tra phải được giao cho bị can, người đại diện của bị
can, gửi cho người bào chữa và thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định tại Khoản 4
Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường
hợp Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố nhưng chưa phát hành và hồ sơ chưa chuyển sang Viện
kiểm sát, nếu qua kiểm sát việc kết thúc điều tra, Kiểm sát viên thấy
có đủ căn cứ đình chỉ điều tra thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra làm lại bản kết luận điều tra và ra
quyết định đình chỉ điều tra; nếu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra không nhất trí thì lãnh đạo Viện tổ chức họp lãnh đạo
liên ngành cùng cấp hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để thống nhất giải
quyết.
Trường hợp Cơ quan có thẩm
quyền điều tra ra bản kết luận điều tra và quyết định đình
chỉ điều tra nhưng chưa phát hành và hồ sơ chưa chuyển sang Viện
kiểm sát mà qua kiểm sát việc kết thúc điều tra, Kiểm sát viên phát hiện
việc đình chỉ điều tra là không có căn cứ thì báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra làm lại bản kết luận điều tra đề nghị
truy tố; nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra không nhất trí thì Viện kiểm
sát thực hiện thẩm quyền theo quy định tại Điều 41 Quy chế này.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng
Trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án, Kiểm sát viên
chủ động yêu Điều tra viên giải thích và đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ
người bị tạm giữ, bị can và những người tham gia tố tụng khác trong hoạt động
điều tra theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Cùng với việc đảm bảo cho người tham gia tố tụng thực
hiện được các quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự thì KSV còn có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
những người này. Trong đó tập trung vào việc giám sát việc chấp hành pháp luật
của giám định viên, luật sư, người phiên dịch, người làm chứng... đảm bảo cho
những người này thực hiện trách nhiệm của mình đúng với quy định của tố tụng
hình sự.
Trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án, khi xác định bắt
buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự
mà người bị buộc tội, bị can hoặc người đại diện hợp pháp, người thân thích của
họ không mời người bào chữa, thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên báo cáo
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có văn bản yêu cầu Đoàn luật sư
phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước cử trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc
diện trợ giúp pháp lý hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Kiểm sát việc kết thúc điều tra của Cơ quan điều tra
+ Kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra,
truy nã bị can:
Theo Điều 39 Quy chế 03, Kiểm sát viên
kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tạm đình chỉ
điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, bảo đảm các trường hợp tạm đình chỉ
điều tra được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự;
nếu thấy quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì
báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định
tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra và yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Khi phát hiện bị can trốn hoặc không xác
định được bị can ở đâu mà Cơ quan điều tra chưa ra quyết định truy nã bị can,
thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản
yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ điều
tra theo quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Khi Kiểm sát viên được phân công thụ lý
vụ án tạm đình chỉ điều tra chuyển công tác; chuyển làm việc khác hoặc có lý do
khác phải nghỉ việc thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm
sát điều tra phải phân công Kiểm sát viên khác tiếp tục theo dõi, quản lý vụ án
đó.
+ Kiểm sát việc kết thúc điều tra:
Theo Điều 40 Quy chế 03, Kiểm sát viên
phải kiểm sát chặt chẽ việc kết thúc điều tra vụ án, bảo đảm các vụ án đã khởi
tố, điều tra phải được kết thúc bằng bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền
điều tra; bản kết luận điều tra phải có nội dung theo quy định tại Điều 232 và
Điều 233 hoặc Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự.Bản kết luận điều tra phải được
giao cho bị can, người đại diện của bị can, gửi cho người bào chữa và thông báo
cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy
định tại Khoản 4 Điều 232 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp Cơ quan có thẩm quyền điều tra
ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố nhưng chưa phát hành và hồ sơ chưa
chuyển sang Viện kiểm sát, nếu qua kiểm sát việc kết thúc điều tra, Kiểm sát
viên thấy có đủ căn cứ đình chỉ điều tra thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra làm lại bản kết
luận điều tra và ra quyết định đình chỉ điều tra; nếu Cơ quan có thẩm quyền điều
tra không nhất trí thì lãnh đạo Viện tổ chức họp lãnh đạo liên ngành cùng cấp
hoặc báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để thống nhất giải quyết.
Trường hợp Cơ quan có thẩm quyền điều
tra ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra nhưng chưa phát
hành và hồ sơ chưa chuyển sang Viện kiểm sát mà qua kiểm sát việc kết thúc điều
tra, Kiểm sát viên phát hiện việc đình chỉ điều tra là không có căn cứ thì báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra làm lại bản kết luận điều tra đề nghị truy tố; nếu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra không nhất trí thì Viện kiểm sát thực hiện thẩm quyền theo quy định
tại Điều 41 Quy chế này.
+ Kiểm sát việc đình chỉ điều tra:
Theo Điều 41 Quy chế 03, Trong thời hạn
15 ngày, kể từ khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án,
Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đình chỉ
điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu,
đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và các vấn đề khác có liên
quan theo quy định tại Điều 230 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự, báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
- Nếu quyết định đình chỉ điều tra có
căn cứ thì ra văn bản trả lại hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải
quyết theo thẩm quyền. Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định hủy bỏ
ngay biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại các tài liệu, đồ vật đã
tạm giữ (nếu có) cho bị can hoặc người có liên quan; đối với biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế do Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc quyết định thì Viện kiểm
sát ra quyết định hủy bỏ theo quy định tại Điều 125 và Điều 130 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
- Nếu quyết định đình chỉ điều tra không
có căn cứ và trái pháp luật thì ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều
tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra và yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều
tra phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Kiểm sát việc phục hồi điều tra:
Khi nhận được quyết định phục hồi điều
tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra căn cứ phục
hồi điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự, báo cáo, đề xuất
lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
- Nếu quyết định phục hồi điều tra có
căn cứ thì Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án bị đình chỉ điều
tra hoặc đang tạm đình chỉ điều tra tiếp tục giải quyết vụ án; nếu Kiểm sát
viên đó không tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải
phân công Kiểm sát viên khác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với
vụ án;
- Nếu quyết định phục hồi điều tra không
có căn cứ và trái pháp luật thì ra quyết định hủy bỏ quyết định phục hồi điều
tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra.
Việc đình chỉ điều tra theo quy định tại
Khoản 5 và Khoản 6 Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự mà bị can không đồng ý và
yêu cầu điều tra lại thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định phục hồi
điều tra hoặc trực tiếp ra quyết định phục hồi điều tra và gửi quyết định đó
cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để tiến hành điều tra.
Ngoài ra, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc
gửi, thông báo quyết định phục hồi điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
theo quy định tại Khoản 2 Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động
điều tra, yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra xử lý nghiêm Điều tra viên đã vi
phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra
Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kịp thời phát
hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra để yêu cầu khắc phục, báo cáo
Viện trưởng, Phó Viện trưởng yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm
minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra. Nếu vi
phạm của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng
yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Nếu hành vi của
Điều tra viên có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp thì Viện trưởng, Phó Viện
trưởng cấp tỉnh báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao cho Cục
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao khởi tố, điều tra theo thẩm quyền.
Đối với những quyết định không có căn cứ, trái pháp luật
của Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra hoặc Điều tra viên thì Viện trưởng, Phó
Viện trưởng ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định thay
đổi hoặc huỷ bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ.
Kiến nghị với cơ quan tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật
VKS thực hiện quyền này chính là nhằm mục tiêu phòng ngừa
tội phạm, từng bước hạn chế tội phạm. Trên cơ sở hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án nếu phát hiện các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
xã hội, đơn vị hữu quan có những sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà
nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế…là nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi
phạm, tội phạm thì Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, tham mưu lãnh đạo Viện ban
hành kiến nghị để yêu cầu khắc phục nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm.
1.2.3. Quy định
của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong thực hành quyền công tố,
kiểm sát giai đoạn sau khi kết thúc điều tra
Đây là giai đoạn thực hiện quyền năng của Viện kiểm sát
trên cơ sở đánh giá kết quả điều tra, xem xét quan điểm xử lý, đề nghị truy tố
của Cơ quan điều tra, để quyết định việc truy tố bị can ra trước toà, quyết
định đình chỉ, tạm đình chỉ, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Vì vậy
giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp sau khi kết
thúc điều tra là hết sức quan trọng. Các hoạt động của Kiểm sát viên trong giai
đoạn này cụ thể như sau:
+ Tiếp nhận hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra và thụ lý
vụ án.
Tiếp nhận và thụ lý hồ sơ vụ án: việc tiếp nhận hồ sơ vụ
án được thực hiện theo điều 44 của Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, truy tố vụ án hình sự. KSV phải kiểm tra ngay số
bút lục trong hồ sơ và đối chiếu với bảng kê tài liệu để đảm bảo sự thống nhất
và đầy đủ.
+
Sau khi thụ lý hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra ngay các biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế đang áp dụng và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Trong
thời hạn truy tố, nếu xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét áp dụng hoặc hủy bỏ biện
pháp cưỡng chế theo quy định tại các Điều 126, 127, 128,
129 và 130 Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án:
Nghiên cứu các thủ tục tố tụng: Kiểm tra các thủ tục tố
tụng gồm: các quyết định tố tụng và các hành vi tố tụng.
Nghiên cứu nhân thân của bị can
Nghiên cứu bản kết luận điều tra, nội dung các tài liệu,
chứng cứ: Phải nghiên cứu một cách kỹ
lưỡng, đầy đủ và toàn diện các vấn đề sau: có hành vi phạm tội xảy ra không, bị
can (hoặc các bị can) phạm tội gì, điều khoản nào, có đồng phạm không, tính
chất mức độ, hậu quả, các tình tiết năng nặng, giảm nhẹ, thời gian xảy ra tội
phạm (liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự), địa điểm xảy ra
tội phạm (liên quan đến việc xác định thẩm quyền theo lãnh thổ). Việc nghiên
cứu phải khách quan trên cơ sở hệ thống các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, tránh
tình trạng chủ quan cho rằng Kiểm sát viên đã nắm bắt được hồ sơ vụ án trong
quá trình điều tra nên không xem xét lại một cách kỹ lưỡng. Cùng với việc đọc
và nghiên cứu nội dung các tài liệu, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp
pháp,có căn cứ của các tài liệu, chứng cứ đó. Vì nếu nội dung của các tài liệu
đó có giá trị chứng minh được các vấn đề trong vụ án nhưng không được lập theo
đúng trình tự, quy định thì sẽ không được coi là hợp pháp. Ví dụ: biên bản hỏi
cung bị can được lập vào lúc 23h, lời khai của người bị hại dưới 16
tuổi không có giám hộ, biên bản ghi lời khai của hai nhân chứng do một Điều tra
viên ghi vào cùng một thời điểm... hoặc các biên bản bị tẩy xóa, ghi thiếu mà
không có chữ ký xác nhận của những người khai.
+ Đánh giá chứng cứ:
Để giải quyết vụ án được đúng đắn, tránh oan sai, sau khi nghiên cứu toàn
bộ nội dung vụ án, Kiểm sát viên phải tổng hợp toàn bộ chứng cứ, xem xét đánh
giá một cách toàn diện và khách quan trên cơ sở:
- Hệ thống các chứng cứ buộc tội: gồm các lời khai, chứng
cứ vật chất, sự phù hợp giữa các chứng cứ đó.
- Hệ thống các chứng cứ gỡ tội: cũng
bao gồm các chứng cứ lời khai, chứng cứ vật chất, những mâu thuẫn và sự không
phù hợp của các tài liệu điều ra.
Trên cơ sở hệ thống chứng cứ, Kiểm sát viên phải đánh giá
chứng cứ.
+ Tổng hợp ghi chép kết quả nghiên cứu:
Sau khi xác định được hành vi phạm tội của bị can, Kiểm
sát viên phải xem xét hành vi đó phạm vào tội gì, vi phạm điều khoản điểm nào.
Việc xác định tội danh phải trên cơ sở
nghiên cứu kỹ hành vi của bị can và xem xét dấu hiệu đặc trưng của tội
phạm, nhất là đối với các tội phạm có đặc trưng giống nhau như Cướp và Cưỡng
đoạt tài sản; Lừa đảo và Lạm dụng tín nhiệm....
Việc nghiên cứu hồ sơ phải được ghi chép (trích cứu tài
liệu) một cách khoa học, đầy đủ, cụ thể nhưng không dài dòng để có thể dễ dàng
tổng hợp, phân tích đánh giá. Hồ sơ kiểm sát không phải là sao chụp lại toàn bộ
hồ sơ điều tra, mà phải thể hiện kết quả nghiên cứu của Kiểm sát viên. Khi
trích cứu, KSV ghi những nội dung chính của tài liệu, tuy nhiên cũng có những
tài liệu mà chi tiết lại hết sức quan trọng đối với việc kết tội, đánh giá
chứng cứ… thì phải ghi cụ thể: ví dụ câu nói, hành động... Những vấn đề mâu
thuẫn giữa lời khai, tài liệu, giữa các chứng cứ hoặc các vấn đề có liên quan
đến nhau cần được lưu ý, nhấn mạnh.
Khi trích cứu các tài liệu phải ghi rõ số bút lục, đặc
biệt là với các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, báo cáo ... cần phải
ghi cả ngày tháng, giờ, địa điểm, như vậy ngoài việc giúp Kiểm sát viên đánh
giá các tài liệu đó một cách chính xác hơn mà còn có thể phát hiện những sai
sót của Cơ quan điều tra.
Mỗi KVS có thể có cách trích cứu hồ sơ khác nhau. Với các
vụ án đơn giản có thể sắp xếp, trích cứu theo thứ tự của hồ sơ điều tra. Đối
với những vụ án phức tạp, đông bị can, nhiều tội danh thì tuỳ theo từng vụ án
để có cách ghi chép phù hợp và dễ dàng cho việc tổng hợp, phân tích, đánh giá.
Thì có thể trích cứu tài liệu theo từng bị can, hoặc có thể trích cứu theo từng
hành vi phạm tội để tổng hợp được hệ thống chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ
tội.
Qua nghiên cứu hồ sơ phải ghi chép lại những vi phạm,
thiếu sót và những điều cần phải bổ sung, ý kiến, quan điểm của KSV để làm cơ
sở trao đổi với Điều tra viên hoặc báo cáo lãnh đạo.
+ Báo cáo án:
Sau khi nghiên cứu xong hồ sơ, KSV phải đăng ký báo cáo
án với lãnh đạo. Việc báo cáo phải dựa trên kết quả nghiên cứu và phải bằng văn
bản (có thể với tiêu đề: phiếu đề xuất, bản báo cáo án…).
+ Quyết định truy tố:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, trên cơ sở kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan điều
tra, thấy đủ căn cứ và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì Viện
kiểm sát quyết định truy tố bị can ra trước Toà án để xét xử.
Kiểm sát viên phải chủ động dự thảo cáo trạng để báo cáo
lãnh đạo Viện. Thông thường việc trình dự thảo cáo trạng được thực hiện cùng
lúc khi KSV báo cáo án.
+ Trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
Để đảm bảo giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện
và có căn cứ, sau khi nghiên cứu hồ sơ thấy chưa đủ điều kiện để truy tố thì
Viện kiểm sát trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để bổ sung.
Điều 245 Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định: Viện kiểm sát ra quyết định trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát
hiện thấy:
1- Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;
2- Có căn cứ để khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm
khác
3- Có người đồng phạm khác hoặc người phạm tội khác liên
quan đến vụ án mà chưa được khởi tố.
4- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”
Yêu cầu chung hiện nay là phải hạn chế việc trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, măc dù đây là quyền của VKS nhưng nó cũng thể hiện chất lượng
của hoạt đong kiểm sát còn hạn chế. Vì vậy để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra
bổ sung , tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án một cách không cần thiết,
Kiểm sát viên và Điều tra viên nên có sự phối hợp tốt với nhau trong quá trình
giải quyết vụ án, kể cả đối với những vấn đề vấn phải bổ sung hồ sơ ở giai đoạn truy tố. Nếu khi nghiên cứu
hồ sơ Kiểm sát viên thấy việc thu thập chứng cứ còn chưa đầy đủ, có thể khắc
phục được mà không nhất thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để bổ sung
thì có thể Viện kiểm sát có công văn yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung, ví dụ:
xác minh các bản án của các lần phạm tội trước đó, xác minh các yêu cầu về bồi
thường dân sự...hoặc Kiểm sát viên và Điều tra viên cùng phối hợp điều tra, xác
minh bổ sung. Tuy nhiên phải hết sức lưu ý: khi Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ
đề nghị truy tố đến Viện kiểm sát thì lúc đó Kiểm sát viên là chủ thể tố tụng,
Điều tra viên không được tự ý tiến hành các hoạt động điều tra đối với vụ án đó
nữa nếu không có yêu cầu của Viện kiểm sát, ví dụ: Điều tra viên lấy lời khai
của người bị hại sau ngày hồ sơ đã chuyển Viện kiểm sát là vi phạm tố tụng.
+ Đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ điều tra:
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và kết luận điều tra đề
nghị truy tố của Cơ quan điều tra, nếu có các căn cứ tại điều 247, 248 Bộ luật
tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều
tra.
1.2.4. Quy định
của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử sơ thẩm
Trong giai đoạn xét xử, phạm vi của công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi chuyển bản
cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ sang toà án để
xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật
không bị kháng cáo, kháng nghị.
Kiểm sát viên công
bố bản cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến giải quyết vụ án tại
phiên toà.
Theo quy định tại điều 306 Bộ luật tố tụng
hình sự và điều 23 quy chế Kiểm sát xét xử: Trước khi tiến hành xét hỏi Kiểm
sát viên đọc cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và quyết định
khác của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án và trình bày ý kiến
bổ sung làm rõ thêm nội dung cáo trạng nếu có.
Kiểm sát viên
tham gia xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm
Điều 307 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về
trình tự xét hỏi: chủ toạ phiên toà xét hỏi rồi đến Hội thẩm sau đó đến Kiểm
sát viên, người bào chữa...
Điều 24 quy chế kiểm sát xét xử quy định: Việc
tham gia xét hỏi là bắt buộc đối với Kiểm sát viên, trước khi tham gia phiên
toà Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương tham gia xét hỏi và những nội dung cần
làm sáng tỏ; dự kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên toà để tham
gia xét hỏi nhằm xác định sự thật của vụ án và các tình tiết khác có liên quan
đến việc định tội và đề xuất hình phạt. Chú ý các mâu thuẫn và cách xét hỏi để
giải quyết mâu thuẫn. Dự kiến nội dung bào chữa và chuẩn bị câu hỏi để làm sáng
tỏ vấn đề người bào chữa quan tâm. Bản đề cương phải được lưu trong hồ sơ kiểm
sát...
Tại phiên toà: Kiểm sát viên phải theo
dõi, ghi chép đầy đủ nội dung xét hỏi của Hộị đồng xét xử, người bào chữa ...
Khi có người tham gia tố tụng xuất trình tình
tiết mới Kiểm sát viên phải kiểm tra nguồn gốc, nội dung, tài liệu để kết luận
về tính hợp pháp; nếu tài liệu đó làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm
sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
Khi xét hỏi, Kiểm sát viên phải đặt câu hỏi
khách quan, rõ ràng dễ hiểu tránh giải thích, kết luận ngay. Kiểm sát viên thực
hiện việc xét hỏi với bị cáo (Điều 309 Bộ luật tố tụng hình sự), hỏi người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ (Điều 310 Bộ luật tố tụng hình sự), hỏi
người làm chứng (Điều 311 Bộ luật tố tụng hình sự), hỏi người giám định, định
giá tài sản (Điều 216 Bộ luật tố tụng hình sự )
Trong phần thủ tục xét hỏi tại phiên toà
Kiểm sát viên còn thực hiện quyền công tố bằng hoạt động xem xét tại chỗ vật chứng
(Điều 312 Bộ luật tố tụng hình sự) xem xét tại chỗ nơi tội phạm xảy ra hoặc các
địa điểm liên quan đến tội phạm (Điều 314 Bộ luật tố tụng hình sự) để đánh giá
chứng cứ.
Kiểm sát viên luận
tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết
vụ án tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Tại điều 321 Bộ luật tố tụng hình sự quy
định: Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời
luận tội, đề nghị kết án bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ kết
luận truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội.
Điều 25 quy chế Kiểm sát xét xử hình sự quy định:
Kiểm sát viên phải chuẩn bị dự thảo luận tội theo mẫu hướng dẫn của Viện kiểm
sát tối cao trước khi tham gia phiên toà. Với các vụ án trọng điểm, phức tạp hoặc
xét xử lưu động dự thảo luận tội phải báo cáo lãnh đạo viện duyệt, cho ý kiến.
Tại phiên toà Kiểm sát viên phải ghi
chép các tài liệu điều tra công khai để điều chỉnh, bổ sung bản dự thảo luận tội.
Điều 354 Bộ luật tố tụng hình sự quy định
về thủ tục cuả phiên toà phúc thẩm: Khi tranh luận Kiểm sát viên phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát về giải quyết vụ án.
Điều 43 qui chế kiểm sát xét xử qui định:
Trước phiên toà phúc thẩm Kiểm sát viên phải chuẩn bị dự thảo kết luận. Tại
phiên toà Kiểm sát viên phải căn cứ vào quá trình xét hỏi tại phiên toà để sửa
chữa bổ sung quan điểm của Viện kiểm sát.
Điều 386, 411 Bộ luật tố tụng hình sự và
Điều 61 qui chế kiểm sát xét xử qui định về việc phát biểu quan điểm của Viện
kiểm sát tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
Kiểm sát viên
tranh luận tại phiên toà với bị cáo và những người tham gia tố tụng tại phiên
toà sơ thẩm, phúc thẩm
Tại phiên toà sơ thẩm:
Điều 322 Bộ luật tố tụng hình sự qui định:
Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày
ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên, Kiểm sát viên phải đưa ra lập luận của
mình đối với từng ý kiến.
Chủ toạ phiên toà có quyền đề nghị Kiểm
sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác mà ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Điều 26 Quy chế Kiểm sát xét xử quy định:
Tranh luận là yêu cầu bắt buộc đối với Kiểm sát viên, Kiểm sát viên phải chuẩn
bị và dự kiến được những vấn đề cần tranh luận. Kế hoạch tranh luận của Kiểm
sát viên phải được lưu trong hồ sơ kiểm sát. Khi tranh luận Kiểm sát viên phải
bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng. Đối
với vụ án phức tạp có 2 Kiểm sát viên tham gia phiên toà phải phân công cụ thể
việc chuẩn bị nội dung, chứng cứ, lập luận để trả lời từng ý kiến có liên quan.
Tại phiên toà phúc thẩm: Điều 354 quy định:
Kiểm sát viên tranh luận tại phiên toà phúc thẩm.
Điều 44 quy chế kiểm sát xét xử: Kiểm
sát viên phải xây dựng kế hoạch tranh luận; ghi chép ý kiến của người bào chữa
và những người tham gia tố tụng để tranh luận.
Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của toà án và những người tham gia tố
tụng
* Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà
án
Điều 17 qui chế kiểm sát xét xử: Kiểm
sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án về thẩm quyền xét xử;
Kiểm sát về việc chuyển vụ án; Kiểm sát về thời hạn chuẩn bị xét xử; Kiểm sát việc
ra các quyết định: áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; Kiểm sát
quyết định đưa vụ án ra xét xử; Kiểm sát quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ vụ
án; kiểm sát việc trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, Việc giao các quyết định.
Nếu phát hiện vi phạm thì kiến nghị yêu cầu toà án khắc phục hoặc kháng nghị
theo qui định.
Cụ thể:
Kiểm sát thời hạn chuẩn bị
xét xử
- Sau khi hồ sơ chuyển cho Tòa án, Kiểm sát
viên phải nắm được ai là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
- Kiểm sát viên phải kiểm sát thời hạn ban hành
một trong những quyết định sau đây của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa:
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử;
+ Quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sun;
+ Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Các quyết định này đều phải được Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa đưa ra trong thời hạn theo quy đinh tại Điều 277 Bộ luật tố tụng
hình sự.
- Nếu quá thời hạn theo quy định tại Điều 277 Bộ
luật tố tụng hình sự mà Thẩm phán chưa ban hành một trong những quyết định trên
thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Thẩm phán chuyển ngay cho Viện kiểm sát quyết định
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Kiểm sát việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn thì Kiểm sát viên phải kiểm sát tính hợp pháp của
các quyết định này; với các yêu cầu sau:
+ Việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp
ngăn chặn tạm giam phải do Chánh án hoặc Phó Chánh án thực hiện; các biện pháp
ngăn chặn khác do Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thực hiện.
+ Sau khi ban hành các quyết định phải gửi ngay
cho Viện kiểm sát.
+ Kiểm sát viên phải kiểm sát thời hạn tạm giam
của Tòa án phát hiện và kiến nghị kịp thời
các trường hợp để quá hạn tạm giam của Tòa án.
Kiểm sát việc tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án
Sau khi nhận được các quyết định này, Kiểm sát
viên phải xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ vụ án, cụ thể là:
Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án:
+ Về thẩm quyền ra các quyết định này có đúng
không?
+ Căn cứ để tạm đình chỉ có đúng với quy định của
Điều 160 Bộ luật tố tụng hình sự không?
+ Sau khi Tòa án tạm đình chỉ thì có thực hiện
các hoạt động tố tụng theo quy định của tố tụng hình sự không? Như phải yêu cầu
cơ quan điều tra truy nã bị cáo với trường hợp không rõ bị cáo ở đâu, phải ra
quyết định bắt buộc chữa bệnh khi bị cáo bị bệnh tâm thần.
Đối với quyết định đình chỉ vụ án:
Kiểm sát các căn cứ mà Tòa án đình chỉ có đúng
theo quy định tại Đieuè 180 Bộ luật tố tụng hình sự hay không? Chú ý là Toà án
chỉ được đình chỉ theo một trong các căn cứ sau:
+ Khoản 1 Điều 105 (người có yêu cầu khởi tố
rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa).
+ Các căn cứ theo các điểm 3,4,5,6,7 Điều 107 Bộ
luật tố tụng hình sự.
+ Khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy
tố trước khi mở phiên tòa.
Nếu phát hiện thấy việc đình chỉ, tạm đình chỉ
không đúng thì báo cáo lãnh đạo Viện để kiến nghị.
Kiểm sát việc trả
hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án
Ngoài
ra, trong quá trình chuẩn bị xét xử, có thể xảy ra trường hợp Tòa án trả hồ sơ
điều tra bổ sung, đòi hỏi Kiểm sát viên phải có kỹ năng kiểm sát việc trả hồ sơ
điều tra bổ sung. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải thực hiện các hoạt động
cụ thể gồm:
Nghiên cứu nội dung quyết
định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án, xác định lý do, căn cứ Toà
án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ
để xác định những yêu cầu của Toà án đã được phản ánh trong hồ sơ như thế nào?
Các yêu cầu đó đã đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quy định của BLHS,
BLTTHS hay không?
Kiểm tra tính hợp
pháp của quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung về thẩm quyền, căn cứ và thời
điểm trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Nếu xác định việc
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là không đúng thì Kiểm sát viên
báo cáo lãnh đạo Viện về nội dung quyết định trả hồ sơ; phân tích sự thiếu căn
cứ và không hợp pháp của quyết định này (chứng minh bằng hồ sơ vụ án và các quy
định của BLTTHS) hoặc xác định rõ các yêu cầu của Toà án là không thể thực hiện
được hoặc xác định rõ vấn đề Toà án yêu cầu hoàn toàn có thể làm rõ tại phiên
toà và Kiểm sát viên đề xuất hướng giải quyết là: Chuyển lại hồ sơ cho Toà án,
tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu lãnh đạo đồng ý thì Kiểm sát viên lập văn bản trả
lời Toà án, trong đó nêu rõ lý do và quan điểm truy tố của Viện kiểm sát.
Nếu xác định việc
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là đúng thì Kiểm sát viên phải báo
cáo với lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ và lãnh đạo Viện, đồng thời đề xuất rõ phương
hướng bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của Toà án theo một trong những cách sau
đây:
Nếu những yêu cầu
điều tra bổ sung không quá phức tạp và Viện kiểm sát có thể tiến hành được theo
quy định của BLTTHS, Quy chế nghiệp vụ của ngành thì Kiểm sát viên đề xuất
không phải trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra mà Viện kiểm sát tự mình bổ sung
chứng cứ. Nếu lãnh đạo Viện đồng ý với phương án này thì Kiểm sát viên phải lập
kế hoạch cụ thể để tiến hành việc bổ sung chứng cứ và thông qua lãnh đạo đơn vị
phê duyệt (cần thiết thì xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Viện).
Nếu các yêu cầu điều
tra bổ sung quá phức tạp thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo Viện trả lại hồ
sơ cho Cơ quan điều tra tiến hành việc điều tra bổ sung. Trong văn bản trả lại
hồ sơ cho Cơ quan điều tra cũng phải nêu rõ lý do, những yêu cầu điều tra bổ
sung cụ thể; thời hạn thực hiện.
Sau khi có kết quả
điều tra bổ sung (do Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra thực hiện), Kiểm sát
viên phải xem xét kỹ các tài liệu này và đánh giá với hệ thống tài liệu, chứng
cứ đã có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy đủ, chính xác chưa? Có đúng với yêu cầu
điều tra bổ sung của Toà án không?.
Đối với trường hợp
tài liệu điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trước
đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành theo yêu cầu của Toà án thì
Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện để ban hành văn bản trả lời Toà án và
giữ nguyên quan điểm truy tố.
Đối với trường hợp
tài liệu điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung quyết định truy tố, cụ thể như:
+ Thay đổi về tội
danh, hoặc xác định có đồng phạm khác thì Kiểm sát viên phải đề xuất với lãnh
đạo Viện yêu cầu Cơ quan điều tra thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Sau khi hoàn thành
việc điều tra bổ sung, Kiểm sát viên phải lập lại bản cáo trạng để phù hợp với
các chứng cứ, tài liệu mới thu thập được.
+ Trường hợp thay
đổi về điểm, khoản, áp dụng của điều luật... thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan
điều tra kết luận điều tra bổ sung sau đó lập cáo trạng truy tố theo điểm,
khoản mới...
Đối với trường hợp
tài liệu điều tra bổ sung dẫn đến việc phải đình chỉ điều tra vụ án, bị can
theo quy định của BLHS và BLTTHS thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện
quyết định. Trường hợp đình chỉ toàn bộ vụ án thì phải thông báo cho Toà án
biết còn việc đình chỉ một phần vụ án (đình chỉ một hay nhiều bị can) thì phải
tiếp tục lập cáo trạng để truy tố các bị can còn lại. Việc thay đổi nội dung
cáo trạng, quyết định truy tố đều phải thông báo cho bị can, những người tham
gia tố tụng.
Một trong những hoạt
động Kiểm sát viên cần chú ý trong quá trình THQCT, kiểm sát xét xử đó là
trường hợp trước khi mở phiên tòa, nếu xét thấy có căn cứ
rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố thì Kiểm sát viên được phân công thực
hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án phải báo cáo đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét, quyết định.
Việc rút quyết định truy tố phải bằng văn bản và nêu rõ lý do. Quyết định rút quyết định truy tố
được lập theo
Mẫu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và lưu hồ sơ kiểm sát. Trường hợp rút
toàn bộ quyết định truy tố thì đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Báo cáo đề xuất của
kiểm sát viên với lãnh đạo viện kiểm sát về việc rút quyết định truy tố phải
được thể hiện bằng văn bản trình bày rõ ràng các nội dung: tóm tắt nội dung
quyết định truy tố, căn cứ để rút quyết định truy tố, quan điểm đề xuất của
Kiểm sát viên về việc rút quyết định truy tố (rút toàn bộ; hay rút một phần, cụ
thể rút vấn đề gì với ai, lý do, hướng giải quyết tiếp theo của vụ án là gì...).
Kiểm sát quyết định đưa vụ án
ra xét xử.
- Kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét
xử phải có đầy đủ các nội dung theo Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự. Trong đó
chú ý đến:
+ Sự tham gia phiên tòa của người giám hộ cho
người chưa thành niên ; luật sư; người bào chữa trong các vụ án theo quy định Điều
76 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Sự tham gia của những người mà lời khai của họ
có giá trị chứng minh tại phiên tòa, như nhân chứng, bị hại… nếu những người đó
vắng mặt thì sẽ gây khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án. Nếu thấy nội
dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến
nghị ngay với Tòa án để bổ sung.
- Kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm
sát, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa, bị hại, đương sự
chậm nhất 10 ngày trước khi mở phiên tòa.
- Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải
kiểm sát thời hạn mở phiên tòa theo quyết định tại khoản 3 Điều 277 Bộ luật tố
tụng hình sự.
Kiểm sát việc giao quyết định
của Tòa án.
Điều 286 Bộ luật tố tụng hình sự có những quy định
rất cụ thể các quyết định mà Tòa án phải giao và những người được Tòa án giao
quyết định theo tố tụng hình sự, gồm có:
Loại quyết định
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử
|
Người phải giao
+ Viện kiểm sát cùng cấp; bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ
và người bào chữa, bị hại, đương sự
|
+ Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án.
|
+ Viện kiểm sát cùng cấp; bị can; bị cáo; người bào chữa; người bị
hại; người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo.
|
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn.
|
+ Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, bị cáo, trại tạm giam nơi đang
giam giữ bị can, bị cáo.
|
Để kiểm sát việc Tòa án giao các quyết định thì
Kiểm sát viên sau khi nhận được các quyết định này cần yêu cầu Tòa án gửi cho
những người khác theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại
phiên tòa hoặc khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo để phát hiện các vi
phạm của thẩm phán, thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp
thời với Chánh án.
* Kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng
tại phiên toà
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp
hành thủ tục tố tụng tại phiên toà của Hội đồng xét xử, Thư ký toà án, những
người tham gia tố tụng bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật. Kiểm sát viên kiểm
sát thành phần của Hội đồng xét xử; Kiểm sát
việc thay thế thành viên của Hội đồng xét xử; Kiểm sát sự có mặt của bị
cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc người đại diện hợp pháp của họ,
người làm chứng, người giám định.
Khi vào phần thủ tục bắt đầu phiên toà
,Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thực hiện các trình tự tố tụng của Toà án; Việc
đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người
được triệu tập đến phiên toà; Kiểm sát
việc giải quyết của toà án trong việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân, Kiểm sát viên, Thư ký toà án, người giám định, người phiên dịch; Kiểm sát
việc giải quyết yêu cầu xem xét chứng cứ và hoãn phiên toà khi có người vắng mặt;
Kiểm sát thực hiện trình tự xét hỏi; Kiểm sát việc hỏi bị cáo; Việc công bố lời
khai tại cơ quan điều tra; Hỏi những người tham gia tố tụng; Việc xem xét vật
chứng; Xem xét tại chỗ; Việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận
xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức.
Quá trình thực hiện trình tự xét hỏi tại
phiên toà, Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham
gia tố tụng trên cơ sở căn cứ quyền và nghĩa vụ của họ được quy định tại Bộ luật
tố tụng hình sự: Quyền và nghĩa vụ của bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan, người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi nghĩa vụ cho đương sự, người giám định, người phiên dịch.
* Kiểm sát trình tự tranh luận tại phiên
toà
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng
xét xử thực hiện trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên toà (điều 322 Bộ
luật tố tụng hình sự).
* Kiểm sát việc tuyên án
Điều 25 Quy chế kiếm sát xét xử quy định:
Khi chủ toạ hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án, Kiểm sát
viên phải chú ý ghi lại những nhận định quan trọng và nội dung quyết định của bản
án sơ thẩm làm căn cứ kiểm tra biên bản phiên toà, bản án sơ thẩm và chuẩn bị nội
dung báo cáo lãnh đạo viện, nếu kháng nghị ngay sau khi tuyên án; Kiểm sát việc
hội đồng xét xử quyết định trả tự do cho
bị cáo hoặc bắt tạm giam bị cáo (điều 328, 329 Bộ luật tố tụng hình sự ).
* Kiểm tra biên bản phiên toà
Điều 29 Quy chế kiểm sát xét xử quy định:
Sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát viên phải kiểm tra biên bản phiên toà, nếu
phát hiện biên bản phiên toà ghi không đầy đủ hoặc không chính xác thì yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét sửa chữa, bổ sung vào
biên bản phiên toà.
Kiểm sát bản án,
quyết định của toà án
Điều 30 Quy chế kiểm sát xét xử quy định:
Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án, quyết định của Toà án nhằm phát hiện những
sai sót và vi phạm của Toà án, kiểm sát việc giao bản án, các quyết định của
Toà án.
Sau khi nhận được bản án hoặc quyết định của
Toà án , Viện kiểm sát cấp sơ thẩm phải sao gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp để kiểm tra xem xét việc kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Ngoài ra, Kiểm sát viên còn phải thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự
phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy định của BLTTHS.
Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát về
hành vi, quyết định của mình.
Chương 2
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ, KỸ NĂNG TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ
2.1. Đánh giá thực trạng thực hiện nhiệm vụ của KSV trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết án hình sự
2.1.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ của KSV
Thực hiện các quy định của pháp luật, thời gian qua đội
ngũ Kiểm sát viên đã có nhiều cố gắng trong công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc giải quyết án hình sự, từng bước khắc phục khó khăn nâng cao chất
lượng công tác, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, mang
lại niềm tin cho quần chúng nhân dân và tạo điều kiện cho sự ổn định và phát
triển kinh tế xã hội.
Theo quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đã chủ động đề
ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra, bám sát tiến độ và thúc đẩy có hiệu quả
chất lượng công tác điều tra. Tỷ lệ phát hiện tội phạm được nâng lên, số vụ
khởi tố, điều tra năm sau cao hơn năm trước. Ngày
05/12/2013, Viện trưởng VKSND tối
cao đã có Chỉ thị số 06/CT- VKSTC về “tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm”
và qua triển khai thực hiện cho thấy, Kiểm sát viên VKSND các cấp đã phối hợp chặt chẽ với CQĐT nói chung, Điều tra
viên nói riêng để bám sát quá
trình điều tra, kịp thời đề ra yêu cầu
điều tra sát với vụ án, đẩy
nhanh tiến độ điều tra vụ án, hạn chế tình trạng điều
tra kéo
dài; khắc phục cơ bản việc lạm dụng bắt khẩn cấp, việc hình sự hoá các quan
hệ kinh tế, dân sự, tạm giam, tạm giữ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của con
người, của công dân; hạn chế đáng kể việc bắt oan, sai; hạn chế tình trạng trả hồ sơ
để điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và CQĐT; đẩy nhanh
tiến độ giải quyết án; giảm đáng kể các trường hợp đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án do bị can không phạm tội.
Trong xét xử các vụ án hình sự, chất lượng thực hành quyền
công tố của Kiểm sát viên từng bước được nâng cao, góp phần để Tòa án ra bản án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Quán triệt chủ
trương cải cách tư pháp, Viện kiểm sát các cấp đã chủ động, tích cực phối hợp
với Tòa án tổ chức nhiều phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp, qua đó nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; kỹ năng xét hỏi, đối đáp và chất lượng
tranh tụng của Kiểm sát viên được nâng lên.
Việc thực hiện
thông khâu kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm đã giúp cho Kiểm sát viên nắm chắc hồ sơ từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử. Kiểm sát viên đã chủ động tham
gia xét hỏi, kiểm tra tài liệu, chứng cứ; tích cực, chủ động tham gia
tranh luận, đối đáp với luật sư và các chủ thể khác tham gia tranh tụng tại phiên tòa, tạo chuyển biến tích cực trong xét xử của tòa án các cấp,
phiên tòa được diễn ra dân chủ và
bình đẳng hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát án hình sự vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đã
ảnh hưởng đến vai trò, vị trí của VKSND và hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Cụ thể là:
- Kiểm sát viên còn chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm và
quyền hạn của mình trong công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác tội
phạm. Do đó dẫn đến tình trạng nhiều hành vi phạm tội không được điều tra, xử
lý theo quy định của pháp luật.
- Chất lượng hồ sơ án hình sự đã được nâng cao nhưng chưa
đáp ứng được yêu cầu, vẫn để xảy ra tình trạng hoàn trả hồ sơ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng.
- KSV vẫn thụ động trong việc thực hiện chức năng, nhiệm
vụ đã được pháp luật quy định; chưa làm tốt hoạt động đề ra yêu cầu điều tra và
kiểm sát việc lập hồ sơ nên kết quả của hoạt động điều tra không thể hiện được
nhiều vai trò của KSV.
- Nhiều trường hợp KSV còn lúng túng khi
thực hiện quyền công tố tại phiên toà đặc biệt việc viện dẫn các chứng cứ chứng
minh khi luận tội và tranh luận; kỹ năng xử lý các tình huống xảy ra tại phiên
tòa còn yếu và chưa linh hoạt.
2.1.2. Nguyên nhân
+ Nguyên nhân khách quan:
Pháp luật chỉ
quy định khi KSV thấy ĐTV có vi phạm, yêu cầu khắc phục, nếu không báo cáo lãnh
đạo kiến nghị với CQĐT mà chưa có quy định cơ chế mạnh để bảo đảm trong trường
hợp việc thực hiện quyền năng này. Thực tiễn cho thấy,
nhiều yêu cầu, quyết định tố tụng của
VKSND /Kiểm sát viên không được CQĐT/Điều tra viên thực hiện một cách đầy đủ,
nhanh chóng và kịp thời, song BLTTHS, BLHS và các luật có liên quan lại không
có quy định để xử lý. Thực tế này ảnh hưởng
đến mục tiêu, hiệu quả của hoạt động công tố, gây khó khăn đối với VKSND/Kiểm
sát viên trong thực hiện chức năng công tố. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung giữa các cơ quan tố
tụng, làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội
phạm và người phạm tội. Nhiều vụ án oan, sai có nguyên nhân từ việc kết quả
khám nghiệm hiện trường, tử thi, phương tiện không bảo đảm để Viện kiểm sát ra
quyết định truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong BLTTHS quy định
Kiểm sát viên chỉ thực hiện chức năng kiểm sát trong quá trình Điều tra viên tiến hành khám nghiệm. Điều tra viên sẽ tiến hành khám nghiệm trên cơ sở yêu cầu của Kiểm
sát viên. Tuy nhiên từ thực tiễn cho thấy
rất nhiều trường hợp Điều tra viên không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ,
kịp thời các yêu cầu của Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm.
- Điều kiện cơ
sở vật chất, kỹ thuật của ngành còn yếu và thiếu.
- Chính sách, chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên chậm được điều chỉnh, bổ
sung tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được giao. Việc quy
định chế độ tiền lương của Kiểm sát
viên được áp dụng giống như cán bộ, công chức nhà nước làm
nhiệm vụ quản lý hành chính
là không phù hợp với tính chất đặc thù của công tác của Viện kiểm sát. Các chế độ ưu tiên đối với Kiểm sát viên cũng chưa được quy định cụ thể và chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện. Do đó, chưa bảo đảm khuyến khích,
tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên yên tâm công tác, cố gắng
phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ.
+ Nguyên nhân
chủ quan:
- Nhận
thức của các Kiểm sát viên về công tác này chưa sâu sắc, chưa đầy đủ và chưa thấy
hết vị trí pháp lý của công tác này trong toàn bộ quá trình tố tụng.
Nhiều Kiểm sát viên đã không nhận thức đầy đủ, đúng đắn
vị trí, trách nhiệm và thẩm quyền của Viện kiểm sát dẫn đến tình trạng không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và Quy chế nghiệp vụ của ngành kiểm sát.
Bên cạnh đó là năng lực nghiệp vụ và kỹ năng của một bộ phận kiểm sát viên chưa
đáp ứng được yêu cầu, không nắm vững và vận dụng đúng các quy định của pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự nên nhiều quyết định của Viện kiểm sát không
đảm bảo tính có căn cứ.
- Một số cán bộ, Kiểm sát
viên chưa đề cao ý thức trách nhiệm, chưa bám sát, đôn đốc việc giải quyết án của
CQĐT, còn tư tưởng nể nang, sợ ảnh hưởng quan hệ phối hợp hai ngành nên chưa
kiên quyết bảo vệ quan điểm, hạn chế đến công tác tham mưu cho lãnh đạo Viện kiểm
sát trao đổi, ra quyết định, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót, vi phạm của
CQĐT.
-
Năng lực của Kiểm sát viên: Có nhiều kiểm sát viên năng lực còn hạn chế, việc nắm
các quy định của pháp luật không đầy đủ và hệ thống vì vậy không đánh giá tổng
hợp được chứng cứ tài liệu tại hồ sơ và tại phiên toà, không phát hiện được mâu
thuẫn trong hệ thống chứng cứ dẫn đến việc áp dụng pháp luật đối với vụ án
không chính xác.
- Công tác quản
lý chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp còn nhiều hạn chế, chưa
có nhiều đổi mới về phương pháp; công tác đào tạo và tự đào tạo chưa đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của công cuộc cải cách tư pháp; điều kiện, cơ sở vật
chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác của ngành kiểm sát nói chung và hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ
của ngành kiểm sát.
- Công tác phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án trong quá trình giải quyết án hình sự đôi khi chưa thực sự kịp thời.
2.2.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả, kỹ năng trong thực hiện nhiệm vụ
của Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải
quyết án hình sự
Hiện nay, công cuộc cải cách tư pháp đang đi vào chiều
sâu và đang đặt ra những yêu cầu mới cho ngành kiểm sát. Nghị quyết số 08 NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới đã đặt ra yêu cầu đối với Viện kiểm sát nhân dân các cấp là
:''... Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp phải
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm
bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử
lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi
hành nhiệm vụ...". Tiếp theo
đó, Nghị quyết số 49 NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ :''...Nghiên cứu việc chuyển viện kiểm sát thành viện công tố, tăng
cường nhiệm vụ của công tố trong hoạt động điều tra…”. Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa đã khẳng định: “…Thực hiện cơ chế
công tố gắn với hoạt động điều tra…”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ IX của
Ban Chấp hành Trung ương khoá X ngày 05/01/2009 về việc tiếp tục thực hiện có
hiệu quả cải cách tư pháp đã khẳng định:
“…Bảo đảm có điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm
của công tố trong hoạt động điều tra…”.
Những yêu cầu của cải cách tư pháp đang đặt ra nhiều vấn
đề cần phải nâng cao hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên trong công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự.
2.2.1. Nhóm giải
pháp chung
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các quy định mới của
pháp luật về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết án hình sự
Thời gian
qua, Quốc hội đã thông qua nhiều dự án luật, trong đó có BLTTHS năm 2015 với
nhiều quy định mới, cụ thể, rõ ràng hơn. Luật đã quy định chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong Kiểm sát viên. Do vậy, để nâng
cao chất lượng công tác, nhiệm vụ quan trọng đầu tiên là phải coi việc triển
khai các quy định của pháp luật có liên quan đến lĩnh vực này là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, bằng nhiều hình thức khác nhau, cụ thể:
Tổ chức các buổi
tập huấn các bộ luật, quy chế mang tính chất chuyên sâu. Đây là một trong những
hình thức triển khai các quy định mới của pháp luật có hiệu quả cao. Qua mỗi buổi
tập huấn, các cán bộ, Kiểm sát viên làm nghiệp vụ sẽ nâng cao nhận thức hơn nữa
đối với những đòi hỏi, yêu cầu của pháp luật trong tình hình mới, nắm bắt được
tinh thần, các quy định pháp luật để từ đó làm căn cứ cho hoạt động của mình
trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Tiếp tục phát động
phong
trào thi đua "Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công
tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm". Phong trào thi đua này đã kéo dài được vài
năm trở lại đây, tạo khí thế hứng khởi, động lực mạnh mẽ cho các tập thể, cá
nhân các cán bộ, Kiểm sát viên trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, cần
áp dụng nhiều hình thức tự đào tạo, đào tạo tại chỗ có hiệu quả như: cuộc thi
tìm hiểu các quy định mới của các bộ luật, luật mới, yêu cầu các cán bộ, KSV tập
trung nghiên cứu, tham gia viết bài tham luận đăng trên website của ngành, thảo
luận tập thể lồng ghép trong các buổi họp cơ quan, đơn vị...
Xây dựng cơ chế bảo
đảm các yêu cầu của Kiểm sát viên phải được thực hiện trong thực tế
Thực tế chất lượng điều tra quyết định chất lượng công tố,
thiếu những chứng cứ trong giai đoạn điều tra thì Kiểm sát viên sẽ rất khó có
thể thành công để thực hiện việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa. Do đó,
hoạt động điều tra của CQĐT phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời các yêu cầu công tố.
Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và hình sự theo hướng
xây dựng bổ sung cơ chế bảo đảm các yêu cầu, quyết định của công tố phải được
thực hiện theo phương châm “nhanh chóng, kịp thời” có thời hạn cụ thể chứ không chỉ dừng lại ở việc kiến
nghị với Cơ quan điều tra, yêu cầu khắc phục vi phạm. Ví dụ cần bổ sung quy
định theo hướng Kiểm sát viên tham gia hoạt động khám nghiệm với tư cách là người chủ trì khám nghiệm và Điều tra viên
là người trực tiếp thực hiện hoạt động khám nghiệm.
2.2.2.
Nhóm giải pháp nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất, bản lĩnh
nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
Để có một đội ngũ KSV có năng lực
và trình độ thì cần có một cơ chế cho ngành Kiểm sát đào tạo chuyên sâu và bản
thân ngành Kiểm sát cũng phải đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo và tự đào tạo
trong ngành (Hiện nay có thể đánh giá ngành Kiểm sát đang có nhiều hạn chế
trong công tác này, mô hình và phương pháp đào tạo không đáp ứng được yêu cầu).
Do vậy, cần:
-
Có kế hoạch định kỳ đào tạo, đào tạo lại để bồi dưỡng cán bộ, Kiểm sát viên khắc
phục tình trạng có cán bộ, Kiểm sát viên sau khi kết thúc đào tạo trình độ cử
nhân mà hàng chục năm sau không được đào tạo lại hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ.
-
Khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ trẻ đi học sau đại học và có chế độ ưu
đãi phù hợp đối với họ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên giỏi, có khả
năng và tâm huyết để cống hiến cho ngành và cho địa phương.
- Cần tiến hành các buổi học giao ban kết
hợp với việc phổ biến tới cán bộ, Kiểm sát viên các văn bản pháp luật mới liên
quan đến công tác của ngành, các hướng dẫn, thông báo rút kinh nghiệm của VKSND
tối cao gửi VKSND các địa phương. Qua đó để cán bộ, Kiểm sát viên có năng lực,
chuyên môn nghiệp vụ trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giải quyết án hình sự nói riêng.
- Cần chú ý trong công tác đào tạo cán bộ
trẻ mới vào ngành. Theo đó, chú trọng phân công Kiểm sát viên có trình độ, năng lực, kinh nghiệm trực
tiếp kèm cặp, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên mới được
bổ nhiệm, chuyên viên mới được tuyển dụng theo hình thức cầm tay chỉ việc để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện kỹ năng nghề cho đội ngũ
cán bộ trẻ.
- Cần quan tâm tuyển chọn, bổ nhiệm, bố
trí, sử dụng... những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Nâng cao chất lượng tranh tụng và kỹ
năng xử lý tình huống phát sinh của Kiểm
sát viên tại phiên toà:
Để tranh tụng và xử lý tình huống phát sinh tại tòa tốt,
trước hết Kiểm sát viên phải nắm vững áp dụng đúng quy định của pháp luật để nâng
cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử, trước hết các
Kiểm sát viên phải thực hiện đúng pháp luật, ngoài nắm vững quy định của Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự các thông tư hướng dẫn liên ngành, nghị quyết
của Hội đồng thẩm phán .Với yêu cầu của từng vụ án cụ thể, Kiểm sát viên còn phải
nắm vững các quy định pháp luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự, các qui định
pháp luật về hành chính...,
Thực hiện đầy đủ và có chất lượng việc xét hỏi để làm rõ
các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, làm rõ cơ sở để bảo vệ quan điểm truy tố.
Kiểm sát viên phải thực hiện tốt nhiều hoạt động mang tính chất chuẩn bị trước
khi tham gia phiên toà. Là một bên tham gia tranh tụng, Kiểm sát viên phải có
kỹ năng nghiệp vụ tranh tụng, thể hiện tinh thần trách nhiệm, lương tâm và danh
dự nghề nghiệp. Phải bảo đảm thủ tục và cách thức tranh tụng một cách nghiêm
minh, dân chủ, công bằng, có văn hoá, tôn trọng quyền của những người tham gia
tố tụng.
- Song song với việc nâng cao năng lực chuyên môn, cần chú
ý nâng cao bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên. Kiểm sát
viên phải thực hiện thành thạo kỹ năng nghiệp vụ về phân tích, đánh giá, nghiên
cứu hồ sơ, có dự kiến trước những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa,
thường xuyên rèn luyện kỹ năng đọc, viết, kỹ năng cảm hóa, giáo dục, thuyết
phục. Mặt khác, do tính đặc thù nghề nghiệp, người Kiểm sát viên phải kết hợp
nhuần nhuyễn kiến thức pháp lý, kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ với sự hiểu
biết tổng hợp các môn khoa học xã hội, khoa học pháp lý, vốn sống, kinh nghiệm
nghề nghiệp....
- Xây dựng tác phong làm việc và sinh hoạt của Kiểm sát
viên với tinh thần trách nhiệm cao, tự giác, tận tụy với công việc, giải quyết
công việc khoa học, tiết kiệm thời gian, lối sống trong sáng, thái độ khiêm
tốn, tôn trọng mọi người...
- Tăng cường đạo
đức nghề nghiệp, thể hiện qua lời nói, cử chỉ, hành động, tư cách nghề nghiệp Kiểm sát viên là cơ
sở nền tảng của văn hóa ứng xử và gắn liền với mọi hoạt động thực hiện chức
năng của Kiểm sát viên.
2.2.3.
Đổi mới công tác tổ chức, quản lý chỉ đạo điều hành
Thứ nhất, Lãnh đạo phải
tham gia trực tiếp vào những hoạt động kiểm sát quan trọng, nhằm bảo đảm các
quyết định pháp lý được ban hành phải đúng đắn, hợp pháp và có căn cứ. Ví dụ
các vụ án nghiêm trọng, rất nghiêm trọng có nội dung phức tạp thì lãnh đạo Viện
kiểm sát phải trực tiếp cùng Kiểm sát viên tham gia kiểm sát khám nghiệm hiện
trường; các trường hợp phê chuẩn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà căn cứ
để phê chuẩn chưa rõ ràng, có nhiều quan điểm thì lãnh đạo Viện phải trực tiếp
xem xét hồ sơ trước khi quyết định phê chuẩn.
Thứ hai, phải tăng cường
hơn nữa công tác quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt động quản lý trước hết phải bảo đảm quản
lý chặt chẽ những hoạt động quan trọng như quản lý về tiếp nhận, xử lý về tố
giác tội phạm, quản lý vấn đề trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung giữa các Cơ
quan tiến hành tố tụng hay quản lý các trường hợp đình chỉ điều tra. Bên cạnh
đó, còn phải quản lý con người để phát huy hết năng lực của cán bộ khi được
giao thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Thứ ba, ban hành văn bản chỉ đạo yêu cầu các cán bộ, Kiểm sát viên khi
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp phải thực hiện mở Nhật ký
để cập nhật hoạt động của cá nhân và chỉ đạo của Lãnh đạo, lưu hồ sơ kiểm sát
để phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành.
Thứ tư, chỉ đạo Lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện việc xây dựng kế
hoạch công tác cá nhân, khi được giao nhiệm vụ phải xây dựng kế hoạch cụ thể
được Lãnh đạo duyệt trước khi thực hiện, việc phân công giao nhiệm vụ cần sát
hợp với thực tế hơn; nhìn việc chọn người có năng lực sở trường phù hợp, không
nhìn người chọn việc theo cảm tính.
Thứ năm, rà
soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên hiện có trên toàn tỉnh
để phân loại trình độ năng lực của từng đồng chí, từ đó xây dựng kế hoạch đào
tạo phù hợp, tránh hình thức.
Thứ sáu, tăng cường
tranh thủ sự hướng dẫn của Viện kiểm sát cấp trên, thực hiện tốt chế độ báo
cáo, thống kê, chế độ thỉnh thị nghiệp vụ, đồng thời phải tạo cơ chế chặt chẽ
trong việc xử lý các thông tin, báo cáo, trả lời thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp
trên.
2.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan
cảnh sát điều tra, Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân
Một
là,
Chủ động xây dựng Quy chế, Nghị quyết phối hợp giữa VKSND và CQĐT, Tòa án trong
công tác giải quyết án hình sự. Nội dung phải chi tiết, cụ thể trình tự các bước
tiến hành, xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan.
Hai
là,
trong quan hệ phối hợp, cần tránh tư tưởng “quyền anh, quyền tôi” dẫn đến tình
trạng coi thường quan hệ phối hợp, hoặc xu hướng mở rộng quan hệ phối hợp dẫn đến
việc triệt tiêu quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên.
Ba
là,
để nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa CQĐT, Tòa án và Viện kiểm sát trong quá
trình giải quyết án hình sự cần thiết phải xây dựng một cơ chế về mối quan hệ một
cách hợp lý, đảm bảo cho nó tồn tại, phát triển. Làm tốt công tác phối hợp,
không những tạo ra sức mạnh tổng hợp của các Cơ quan tiến hành tố tụng trong đấu
tranh phòng ngừa tội phạm mà còn góp phần vào hoạt động điều tra được nhanh
chóng, chính xác.
2.2.5. Một số giải
pháp khác
Cải cách tư pháp cũng xác định rõ việc phải đảm bảo các
điều kiện cho VKS thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Do
đó, ngoài các điều kiện về mặt pháp lý tố tụng hình sự thì cần có các điều kiện
về xây dựng tổ chức bộ máy của VKS các cấp với đội ngũ KSV có đủ chức danh tố
tụng và năng lực trình độ tương xứng với tổ chức của CQĐT. (Hiện nay số lượng
KSV làm công tác giải quyết án hình sự chỉ bằng 1/20 số lượng Điều tra viên và
chức danh pháp lý là không tương xứng. Mặt khác ở cấp quận, huyện và cấp tỉnh
Cơ quan điều tra có các chức danh ĐTV cao cấp, ĐTV trung cấp, ĐTV sơ cấp nhưng
ở VKS cấp huyện và tỉnh mới có 2 chức danh là KSV trung cấp và KSV sơ cấp (trừ
Viện trưởng VKSND cấp tỉnh), điều này không phù hợp với thực tiễn thực hiện
chức, năng nhiệm vụ của VKS.
Nhanh chóng
điều chỉnh, bổ sung chính
sách, chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên tương xứng với quyền hạn,
trách nhiệm được giao.
Bên cạnh đó là việc đảm bảo các cơ sở vật chất thiết yếu
cho KSV khi thực hiện công vụ như: trang bị máy ảnh, ghi âm, ghi hình, phương
tiện đi lại....
Tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành kiểm sát: Trong giai đoạn hiện nay, công nghệ thông tin là yếu tố
thiết yếu phục vụ công tác quản lý, hoạt động nghiệp vụ của hệ thống cơ quan
nhà nước trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
KẾT LUẬN
1. Trong tố tụng
hình sự, Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện
hai chức năng cơ bản đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
trong quá trình tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi bản án có
hiệu lực được quy định một cách cụ thể đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mà cải cách tư
pháp đặt ra đó là “Phân định rõ thẩm quyền
quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng
tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên… để họ chủ động trong thực
thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các
hành vi và quyết định tố tụng của mình”.
2. Các quy định
pháp luật đã bao quát được hầu hết các hoạt động của Kiểm sát viên, địa vị pháp
lý của Kiểm sát viên trong quá trình tiến
hành tố tụng hình sự. Đó là các quy định pháp
luật mà Kiểm sát viên sẽ thực hiện
một cách trực tiếp (nhân danh Kiểm sát viên) hoặc một cách gián tiếp (nhân danh
Viện kiểm sát) liên quan đến: Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều
tra hình sự đối với sự kiện phạm tội (khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự);
Quyết định việc khởi tố bị can (phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can, trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can); Quyết định việc có hạn chế
hay không quyền tư do dân chủ của cá nhân người phạm tội (xét phê chuẩn việc bắt,
gia hạn tạm giữ, tạm giam); Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố
tụng (đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án); Quyết định truy tố bị can và các hoạt
động thực hành quyền công tố tại phiên
toà.
3. Mặc dù pháp luật
tố tụng đã quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát tại
Điều 42 của BLTTHS nhưng quá trình thực thi nhiệm vụ trong thực tế của Kiểm sát
viên còn nhiều bất cập. Trên cơ sở thực tiễn công tác, đề tài đã phân tích những
hạn chế, vướng mắc và chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của hạn chế, vướng mắc
đó.
4. Trước yêu cầu cải
cách tư pháp và hội nhập quốc tế nhằm đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm
thì vấn đề nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong quá trình tố tụng hình sự là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Qua
đó, bên cạnh việc làm tốt các nhóm giải pháp chung, cần chú trọng nâng cao năng
lực, nhận thức, phẩm chất, bản lĩnh, đạo đức nghề nghiệp cho Kiểm sát viên, đổi
mới phương thức chỉ đạo, điều hành, tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tư
pháp, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin… là những giải pháp trước mắt, lâu
dài.
MỤC LỤC
Chương 1 NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ
Chương 2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ, KỸ
NĂNG TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ,
KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT ÁN HÌNH SỰ